Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH – TỈNH VĨNH LONG

 BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Trong ngày 27 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 497/2020/TLST- HNGĐ, ngày 21/10/2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 186/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST-DS, ngày 11/01/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lâm Bích P (BH), sinh 1966 (Có mặt) Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long Tạm trú: ấp C, xã D, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

2. Bị đơn: Ông Bùi Văn S, sinh 1966 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 31/8/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Lâm Bích P trình bày:

Bà và ông Bùi Văn S đi đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại xã ĐT, huyện BM, tỉnh Vĩnh Long. Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường xuyên bất đồng ý kiến, không còn tình cảm với nhau, ông S có đánh đập bà nên bà đã yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long giải quyết thuận tình ly hôn vào ngày 08/9/2011.

Vì mối quan hệ con cái nên bà và ông S đã đoàn tụ và đi đăng ký kết hôn lại vào ngày 9/11/2012 tại UBND xã Mỹ Thạnh Trung, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Khi kết hôn lại thì vợ chồng sống bên gia đình bà ở ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Bà ít khi ở nhà, thỉnh thoảng mới về nhà ở xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, bà đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh từ cuối năm 2012 để nuôi con đi học. Đến năm 2016 thì bà về xã D, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long ở cho đến nay.

Sau khi kết hôn lại thì cuộc sống hôn nhân cũng không hạnh phúc, khi gặp mặt thì vợ chồng có lời qua tiếng lại, mâu thuẫn ngày càng gay gắt hơn. Cách đây 1 năm thì ông S có lên đập phá tài sản của bà ở xã D, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, thì ông S đi về, bà vì tình nghĩa vợ chồng nên không có báo Công an.

Bà và ông S đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Từ lúc ly thân bà và ông S cũng có liên hệ về con cái, hai bên cũng có ý định hàn gắn lại gia đình nhưng không được. Nay bà thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Bùi Văn S.

Về con chung: Có 02 con chung Bùi Hữu A, sinh ngày 12/12/1991, Bùi Anh T, sinh ngày 30/7/1998, các con đã trưởng thành, không đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như trong biên bản hòa giải ngày 23/12/2020, bị đơn ông Bùi Văn S trình bày:

Ông và bà Lâm Bích P có đăng ký kết hôn và sống chung được 32 năm, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại xã ĐT, huyện BM, tỉnh Vĩnh Long. Trong thời gian chung sống vợ chồng chỉ có cãi nhau, xung đột, ông không có đánh đập bà P. Vợ chồng ly hôn là do bà P là con liệt sĩ xin tiền cất nhà, để bà P tách hộ đứng riêng ra, ông đồng ý ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Tam Bình giải quyết thuận tình ly hôn vào ngày 08/9/2011.

Sau đó đến năm 2012 thì ông và bà P kết hôn lại vào ngày 9/11/2012 tại UBND xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Khi kết hôn lại thì vợ chồng sống bên gia đình bà P, bà P ít ở nhà, bà P đi làm thuê ở Thành phố Hồ Chí Minh từ cuối năm 2012. Bà P cũng có về, vợ chồng cũng có cự cãi, bà P chửi bới, la và đập phá đồ đạc, chửi hai con, đuổi hai con và ông ra khỏi nhà. Hai đứa con về Thành phố Hồ Chí Minh, ông về nhà cha mẹ ruột ở Bình Minh ăn Tết, mỗi lần giận lên là bà P chửi bới, đuổi ra khỏi nhà, xé đồ đạc của ông, đòi đốt nhà, ông điện công an và công an viên ấp có đến động viên, không lập biên cho hai bên ký tên gì hết. Từ năm 2012 bà P cũng có tới lui và chính thức ở trên xã D từ năm 2016, ông và bà P sống ly thân cho đến nay. Ông cũng có lên xã D, ông cũng có khuyên vợ chồng nên đoàn tụ, hàn gắn chuyện gia đình, ly hôn ảnh hưởng đến con cái, nhưng bà P nhất quyết không chịu. Nay bà Lâm Bích P yêu cầu ly hôn thì ông không đồng ý, vợ chồng lớn tuổi, ông còn thương bà P, để con cái ổn định, cưới vợ, gã chồng xong, có thể sẽ đồng ý ly hôn nếu bà P yêu cầu.

Về con chung: Có 02 con chung Bùi Hữu A, sinh ngày 12/12/1991, Bùi Anh T, sinh ngày 30/7/1998, các con đã trưởng thành, không đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Có, nhưng chưa cung cấp được giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án.

- Tại phiên tòa, bà Lâm Bích P vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn với ông Bùi Văn S. Về con chung: Có 02 con chung Bùi Hữu A, sinh ngày 12/12/1991, Bùi Anh T, sinh ngày 30/7/1998, các con đã trưởng thành, không đặt ra giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long phát biểu việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Việc tố tụng: Thẩm phán xác định đúng quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ đầy đủ, thủ tục cấp, tống đạt văn bản tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

Về nội dung: Căn cứ vào Điều 53, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Lâm Bích P được ly hôn với ông Bùi Văn S.

Về con chung: Có 02 con chung Bùi Hữu A, sinh ngày 12/12/1991, Bùi Anh T, sinh ngày 30/7/1998, các con đã trưởng thành, nên không đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Ngoài các yêu cầu trên, các đương sự không có yêu cầu nào khác và cũng không có cung cấp tài liệu, chứng cứ mới tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về pháp luật tố tụng:

- Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về việc ly hôn. Bị đơn cư trú tại xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn ông Bùi Văn S vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ vào quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ” và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Các trường hợp quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật này”, nên Toà án xét xử vắng mặt bị đơn.

Về pháp luật nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Bích P và ông Bùi Văn S sau khi ly hôn và được Tòa án nhân dân huyện Tam Bình ra quyết định thuận tình ly hôn ngày 08/9/2011. Sau đó hai bên tự nguyện đăng ký kết hôn lại và được cấp giấy chứng nhận kết hôn tại UBND xã Mỹ Thạnh Trung, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long vào ngày 9/11/2012, do đó hôn nhân của bà P, ông S là hợp pháp.

Xét yêu cầu của bà Lâm Bích P xin ly hôn với ông Bùi Văn S, quá trình giải quyết Tòa án hòa giải nhưng không thành. Hội đồng xét xử xét thấy theo quy định khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Như vậy, trong khoảng thời gian bà P, ông S chung sống với nhau có phát sinh mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng không còn chung sống với nhau từ năm 2016 cho đến nay. Trong khoảng thời gian không sống chung với nhau thì vợ chồng chưa giải quyết dứt điểm những mâu thuẫn để vợ chồng đoàn tụ, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, hiện tại mỗi người đều có cuộc sống riêng làm cho quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng bị vi phạm nghiêm trọng. Việc ly thân đó dẫn đến hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà P được ly hôn với ông S là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014.

[2]. Về con chung của vợ chồng: Bùi Hữu A, sinh ngày 12/12/1991, Bùi Anh T, sinh ngày 30/7/1998 đã trưởng thành, nên không đặt ra giải quyết.

[3]. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Bà Lâm Bích P khai không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Bùi Văn S trình bày trong bản khai về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng là có, nhưng chưa cung cấp được cho Tòa án cho đến nay. Như vậy, yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung của ông S là khác với yêu cầu của bà P nên ông S phải cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu của mình. Theo khoản 4, Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”.

Hội đồng xét xử xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, bà Lâm Bích P không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng; ông Bùi Văn S có trình bày là yêu cầu giải quyết tài sản chung, nợ chung; Tòa án đã ra Thông báo yêu cầu ông S cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung nhưng lần đầu không cung cấp được, ông S xin gia hạn đến ngày 23/12/2020 và được Tòa án chấp nhận theo yêu cầu của ông S, nhằm tạo điều kiện cho ông có thời gian cung cấp tài liệu, chứng cứ, để Tòa án xem xét bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.

Tuy nhiên hết thời hạn yêu cầu và thời hạn gia hạn, ông Bùi Văn S vẫn không cung cấp được cho Tòa án bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh cho yêu cầu giải quyết chia tài sản chung, nợ chung, trong khi đó bà Lâm Bích P cũng không có yêu cầu giải quyết về tài sản chung, nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung, nợ chung của bà P và ông S.

[4]. Về án phí: Nguyên đơn là con của Liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ nên theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nên bà P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, khoản 1 Điều 273, khoản 2 Điều 482 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm đ, khoản 1, Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Lâm Bích P được ly hôn với ông Bùi Văn S.

[2]. Về con chung: Bùi Hữu A, sinh ngày 12/12/1991, Bùi Anh T, sinh ngày 30/7/1998 đã trưởng thành, nên không đặt ra giải quyết.

[3]. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Không đặt ra xem xét giải quyết, do không có yêu cầu.

[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Miễn án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn cho bà Lâm Bích P.

[5]. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;