Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 779/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 275/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 210/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị L, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn 4, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Doãn T, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn 4, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Vũ Thị L là nguyên đơn, trình bày nội dung chị kết hôn với anh Bùi Doãn T trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 15 tháng 4 năm 2016. Sau lễ cưới, chị về chung sống cùng với anh T tại thôn 4, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, do anh T mải chơi, không lo làm ăn xây dựng kinh tế gia đình, không chăm sóc vợ con. Đến năm 2018, anh T vi phạm pháp luật và phải đi chấp hành án phạt tù. Hiện nay, anh T đã chấp hành án xong và trở về địa phương, nhưng Bùi Doãn D và anh T đã không còn quan tâm đến nhau, vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay. Gia đình hai bên đã hòa giải mâu thuẫn cho hai vợ chồng nhưng tình cảm vẫn không được cải thiện. Nay, Bùi Doãn D nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn anh T. Chị và anh Bùi Doãn T có 01 con chung tên Bùi Doãn D sinh ngày 20 tháng 3 năm 2016. Khi ly hôn, Bùi Doãn D đề nghị để anh T trực tiếp nuôi con, tự thỏa thuận với anh T về cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, chị và anh T không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Bùi Doãn T là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng, song đến ngày mở phiên tòa, anh T vẫn không có ý kiến về việc chị Vũ Thị L xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Vũ Thị L được ly hôn anh Bùi Doãn T; đề nghị giao cháu Bùi Doãn D cho anh Bùi Doãn T trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng Bị đơn là anh Bùi Doãn T đã được tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Vũ Thị L ly hôn với anh Bùi Doãn T Chị Vũ Thị L và anh Bùi Doãn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, kết hôn giữa Bùi Doãn D và anh T là hợp pháp. Tài liệu xác minh tại Ủy ban nhan dân xã M và tại gia đình anh Bùi Doãn T thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, anh T không chịu khó làm ăn và chăm sóc gia đình, kinh tế gặp nhiều khó khăn. Bùi Doãn D về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay, tình cảm ngày càng thờ ơ lạnh nhạt và không còn quan tâm đến nhau. Vợ chồng đã có một thời gian dài ly thân để cải thiện lại tình cảm nhưng tại phiên tòa, Bùi Doãn D vẫn kiên quyết xin được ly hôn với anh T với lý do vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ. Anh T nhận được các văn bản của Tòa án song không thể hiện quan điểm và vắng mặt tại các phiên hòa giải, phiên tòa chứng tỏ anh T không thực sự mong muốn hàn gắn quan hệ vợ chồng.

Từ những chứng cứ nêu trêm cho thấy mâu thuẫn giữa Bùi Doãn D và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bùi Doãn D xin ly hôn anh T.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị Vũ Thị L và anh Bùi Doãn T có 01 con chung tên Bùi Doãn D, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2016. Khi ly hôn, Bùi Doãn D đề nghị để anh T được trực tiếp nuôi con. Xét thấy, con chung hiện đang ở cùng với anh T, được chăm sóc và phát triển bình thường về tâm sinh lý, việc ăn ở, học tập đã ổn định. Anh T ở cùng với mẹ đẻ là bà Vũ Thị N ở nhà tại thôn 8, xã M, huyện T và được bà Nhị hỗ trợ việc chăm sóc nuôi dưỡng cháu Bùi Doãn D. Bùi Doãn D là lao động tự do, không có chỗ ở ổn định. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, điều kiện, hoàn cảnh của Bùi Doãn D, của anh T, Hội đồng xét xử xét giao cho anh Bùi Doãn T tiếp tục nuôi con tên Bùi Doãn D là phù hợp.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Bùi Doãn D đề nghị tự thỏa thuận với anh T về cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh T không có quan điểm đề nghị Bùi Doãn D cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy quyền lợi của con vẫn được đảm bảo nên Hội đồng xét xử không giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung, chị Vũ Thị L khai chị và anh T không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết; mặt khác không có quan điểm của anh Bùi Doãn T về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Vũ Thị L phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, - Cho chị Vũ Thị L được ly hôn với anh Bùi Doãn T.

- Giao cho anh Bùi Doãn T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Bùi Doãn D, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2016 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Chị Vũ Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0002431 ngày 26/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Vũ Thị L đã nộp đủ án phí.

- Chị Vũ Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Bùi Doãn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;