Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 10/03/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 07/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/03/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 10 tháng 3 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 429/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2019, về việc “Ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Kim H, sinh năm 1997; Địa chỉ cư trú: ấp B, xã B1, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Anh Bùi Hoàng A, sinh năm 1990; Địa chỉ cư trú: ấp T, xã M, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre.

Chị H có mặt, anh Hoàng A vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/9/2019, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Trương Thị Kim H trình bày:

1. Về hôn nhân: Chị xin ly hôn với anh Bùi Hoàng A. Lý do xin ly hôn: Chị và anh Bùi Hoàng A tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã B, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 02/6/2015. Sau khi cưới, vợ chồng sống ở hai nơi khác nhau, anh Hoàng A làm thuê tại thành phố Hồ Chí Minh, chị sống cùng cha mẹ ruột và làm thuê tại thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do anh Hoàng A không lo cho vợ con, vợ chồng phát sinh cãi vã, có lần xảy ra xô sát. Nay chị đã suy nghĩ kỹ, thấy rằng vợ chồng khó hàn gắn nên quyết định ly hôn với anh Hoàng A.

2. Về con chung: Bùi Trương Quốc T, sinh ngày 13/01/2015. Hiện nay, con đang sống cùng chị và chị có yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh Hoàng A cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung của vợ chồng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung của vợ chồng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- - Bị đơn: Anh Bùi Hoàng A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt, không có lời trình bày.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam phát biểu cho rằng:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký, đương sự nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình được Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.

Về nội dung giải quyết: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trương Thị Kim H; Về con chung: Bùi Trương Quốc T, sinh ngày 13/01/2015 để Chị H trực tiếp nuôi con. Do Chị H không yêu cầu anh Hoàng A cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét; Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Chị H trình bày không có, không yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và nghe ý kiến của Kiểm sát viên, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Căn cứ vào đơn xin ly hôn của chị Trương Thị Kim H, xác định đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có quan hệ tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con chung”. Trong đó xác định chị Trương Thị Kim H là nguyên đơn, anh Bùi Hoàng A là bị đơn; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 68 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Anh Bùi Hoàng A là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không rõ lý do, không có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Hoàng A là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

1. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Trương Thị Kim H, thấy rằng:

Chị H cho rằng do vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, do vợ chồng đi làm ở hai nơi khác nhau, ít gặp gỡ và do anh Hoàng A không lo cho vợ con. Nhận thấy tình cảm giữa vợ chồng khó hàn gắn nên quyết định xin ly hôn với anh Hoàng A; Anh Hoàng A vắng mặt, không có lời trình bày.

Khi thực hiện xác minh, bà Nguyễn Thị K là mẹ ruột của anh Bùi Hoàng A cho rằng: Hôn nhân giữa Chị H và anh Hoàng A có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Sau khi cưới, anh Hoàng A đi làm ở thành phố, còn Chị H thì sống với gia đình cha mẹ ruột ở tỉnh Tiền Giang. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh Hoàng A thấy Chị H chụp hình và nhắn tin với người nam khác. Từ đó, vợ chồng thường xuyên cãi vã, không hợp nhau, tình cảm không còn, không thể hòa hợp, hàn gắn được nên anh Hoàng A cũng đồng ý ly hôn với Chị H.

Qua thực hiện xác minh, chính quyền địa phương cho biết: Anh Bùi Hoàng A sống chung với gia đình tại địa phương nhưng hiện nay đi làm ở thành phố. Hôn nhân giữa Chị H và anh Hoàng A là có thật. Tuy nhiên, sau khi cưới anh chị ít sống tại địa phương nên không rõ mâu thuẫn vợ chồng. Qua các cuộc họp tổ tại địa phương không thấy đơn yêu cầu hòa giải mâu thuẫn vợ chồng.

Thấy rằng mục đích hôn nhân là để xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Trong quá trình chung sống vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Xét thấy mâu thuẫn giữa Chị H và anh Hoàng A đã xảy ra. Nguyên nhân chính là do vợ chồng sống ở hai nơi khác nhau nên thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ và không còn tin tưởng nhau, làm cho tình cảm phai nhạt dần. Nay Chị H cho rằng đã suy nghĩ kỷ nên quyết định ly hôn. Tòa án đã triệu tập anh Hoàng A nhiều lần đến Tòa để hòa giải với Chị H, tuy nhiên anh Hoàng A không đến và cũng không có ý kiến trình bày, điều đó chứng minh anh Hoàng A cũng không có thiện chí đoàn tụ. Xét mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân đã không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị H với anh Hoàng A là đúng theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

2. Về con chung: Bùi Trương Quốc T, sinh ngày 13/01/2015, hiện nay con đang sống cùng Chị H, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con. Tuy không lấy được lời khai của anh Hoàng A nhưng khi hỏi ý kiến thì mẹ của anh Hoàng A là bà Nguyễn Thị K cho biết: Cháu Toàn đã sống bên gia đình Chị H từ nhỏ đến lớn.

Đồng thời, gia đình nội sức khỏe hạn chế và điều kiện đi lại khó khăn cho việc học tập của cháu nên anh Hoàng A đồng ý để Chị H trực tiếp nuôi con. Mặc khác, cháu Toàn đã quen với môi trường sống bên mẹ và gia đình bên ngoại nên giao con cho Chị H được quyền trực tiếp nuôi con là phù hợp. Chị H không yêu cầu anh Hoàng A cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ đối với con chưa thành niên theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung của vợ chồng: Chị H không yêu cầu và anh Hoàng A không có lời trình bày nên không xem xét, giải quyết.

4. Nợ chung của vợ chồng: Chị H trình bày không có và anh Hoàng A không có lời trình bày nên không xem xét, giải quyết.

[3]. Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với nhận định nên được chấp nhận.

[4]. Về án phí: Chị Trương Thị Kim H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trương Thị Kim H.

Cụ thể tuyên:

1. Chị Trương Thị Kim H được ly hôn với anh Bùi Hoàng A.

2. Về con chung: Bùi Trương Quốc T, sinh ngày 13/01/2015, chị Trương Thị Kim H được trực tiếp nuôi con. Ghi nhận chị Trương Thị Kim H không yêu cầu anh Bùi Hoàng A cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trong nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con khi có căn cứ.

3. Về tài sản chung của vợ chồng: Chị Trương Thị Kim H không yêu cầu và anh Bùi Hoàng A không có lời trình bày nên không xem xét, giải quyết.

4. Nợ chung của vợ chồng: Chị Trương Thị Kim H trình bày không có và anh Bùi Hoàng A không có lời trình bày nên không xem xét, giải quyết.

Các đương sự không có yêu cầu nào khác, không xem xét.

5. Về án phí dân sự không có giá ngạch: 300.000 đồng, chị Trương Thị Kim H chịu, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006548 ngày 03 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án huyện Mỏ Cày Nam.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 10/03/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:07/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;