Bản án 07/2019/HSST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TC, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 07/2019/HSST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TC tỉnh Sơn La mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2019/HSST ngày 22 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh T; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 28-8-1980 tại huyện TC, tỉnh Sơn La; nguyên quán: xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình; nơi ĐKHKTT: tiểu khu X, thị trấn huyện TC, tỉnh Sơn La; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Hữu Ph, sinh 1952 và bà Phan Thị Đ, sinh năm 1956;có vợ là Giang Thanh N; sinh 1980 (đã ly hôn) và 02 con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án: Không; tiền sự: có 01 tiền sự (năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện TC, tỉnh Sơn La ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng); bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/10/2018 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 09/10/2018 Nguyễn Thanh T gặp một người đàn ông dân tộc Mông ( Tùng không biết rõ họ tên ) nhà ở xã N, huyện S, tỉnh Sơn La tại ngã ba vào bản T, xã TM, huyện TC, khi gặp T đã hỏi và mua được của người đàn ông đó 01 gói heroin được gói bằng nilon màu trắng với giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua được heroin, T cầm về nhà với mục đích để sử dụng dần, đến khoảng 9 giờ cùng ngày thì T đi bộ từ nhà ở tiểu khu 10, thị trấn huyện TC mang theo gói ma túy vừa mua được cất vào trong túi quần phía trước bên trái đang mặc đi theo đường Trung Dũng hướng đi lên Phòng Giáo Dục huyện TC thì gặp Lò Văn N, sinh năm 1996, trú tại bản C, xã A, huyện MA, tỉnh Điện Biên điều khiển xe mô tô đi đến gặp T, qua nói chuyện N đã hỏi bán chiếc xe mô tô đang đi cho Nguyễn Thanh T. Khi T và N đang nói chuyện thì có tổ công tác Công an huyện TC đến yêu cầu kiểm tra ma túy; qua kiểm tra đối với Nguyễn Thanh T tổ công tác phát hiện thu giữ trong túi quần phía trước bên trái 01 gói heroin như đã nêu, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Tang vật thu giữ gồm: 01 gói ni lông màu trắng bên trong có bột màu trắng, theo Nguyễn Thanh T khai là heroin.

 Gồm một khoản ); ( BL 21 – 22 hồ sơ ).

Hồi 15 giờ 30 ngày 09/10/2018, Công an huyện TC phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh số bột màu trắng nghi là heroine thu giữ của Nguyễn Thanh T và xác định được khối lượng là 4,52 gam, rút 0,44 gam đánh ký hiệu T1 gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La để giám định chất ma túy (BL 27 hồ sơ)

Tại Kết luận giám định số: 1104/KLMT ngày 17/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám đinh ký hiệu T1 là chất ma túy; Loại chất heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,44 gam. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định ). Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 4,52 gam loại chất heroin ( BL 19 hồ sơ ).

Tại phiên tòa, lời khai, lời trình bày ý kiến của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án như: biên bản hỏi cung bị can; biên

bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ, niêm phong, mở niêm phong vật chứng của vụ án để lấy mẫu giám định; kết luận giám định.

Bản cáo trạng số 08/CT- VKS ngày 21-01-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TC giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Thanh T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, v khoản 1; khoản 2 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T mức án từ 48 đến 54 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 09-10-2018 ( là ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ).

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tuyên tịch thu tiêu hủy: 4,08 g chất ma túy loại hê rô in ký hiệu T2.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Thanh T: Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, bị cáo rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TC Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi tàng trữ trái phép là 4,52 gam hê rôn in của bị cáo Nguyễn Thanh T nhằm mục đích sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật. Bởi, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 như quan điểm truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TC.

Tại Điều 249 BLHS 2015 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………….

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………………………

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 có mức hình phạt từ 01 đến 05 năm đối với bị cáo Nguyễn Thanh T.

[4] Xét nhân thân bị cáo là người chưa có tiền sự, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy mà vẫn cố ý phạm tội nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh với tệ nạn ma túy. Cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo để trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[5] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tàng trữ ma túy với số lượng tương đối lớn, mục đích chỉ để sử dụng cho bản thân; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; trước đây bản thân bị cáo đã có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác được Công an tỉnh Sơn la tặng nhiều giấy khen; bị cáo có bố đẻ được tặng huân chương chiến sĩ vẻ vang; có bố và mẹ được UBND tỉnh Sơn La tặng huy hiệu vì sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Sơn La. Cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

[6] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS. Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy không có khả năng thi hành nên không áp dụng.

[8] Về vật chứng: Đối với 4,08 g chất ma túy, loại chất Heroin là vật nhà nước cấm lưu hành cần áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy.

[9] Về nguồn gốc số heroine theo Nguyễn Thanh T khai là mua của một người đàn ông dân tộc Mông ( T không biết tên, tuổi cụ thể ) ở trong bản T, xã TM, huyện TC với giá 1.000.000đ. Do không xác định được tên tuổi, cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ, cần chấp nhận

[10] Đối với Lò Văn N sinh 1996 trú tại bản C, xã A, huyện MA, tỉnh Điện Biên. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TC đã xác định được Lò Văn Ngọc đã có hành vi trộm 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave Rsx 110 tại bản C, xã A, huyện MA, tỉnh Điện Biên; N đang trên đường mang đi bán thì bị phát hiện bắt giữ; do vụ việc không thuộc thẩm quyền xử lý nên Cơ quan CSĐT Công an huyện TC đã chuyển giao đối tượng Lò Văn N và vật chứng cho Cơ quan CSĐT Công an huyện MA, tỉnh Điện Biên để xử lý theo thẩm quyền

[11] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự

[12] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s,v khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T: 40 (bốn mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 09-10-2018 ( là ngày bắt giam giữ bị cáo ).

Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

3. Xử lý vật chứng:

Áp dụng 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 4,08 (bốn phẩy không tám gam) chất bột Hêrôin; 01 mảnh ni lông màu trắng; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu.

4. Án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ  thẩm là200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo

Áp dụng Điều 331, 333 BLTTHS năm 2015 báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 07/2019/HSST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;