Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 25/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU – TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 04 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 98/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 03 năm 2019 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 04 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị L, sinh năm 1985. (có mặt)

Địa chỉ: Số C đường R, khóm B, phường O, thành phố S, tỉnh Bạc Liêu.

Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc K, sinh năm 1984. (vắng mặt)

Địa chỉ: Số D khóm Đ, phường M, thành phố S, tỉnh Bạc Liêu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/02/2019, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là bà Trần Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Quốc K tự nguyện chung sống vợ chồng vào năm 2009 nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên đời sống chung không thể kéo dài. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà L xin ly hôn với ông K.

Về con chung: Quá trình chung sống bà L, ông K có 01 con chung là cháu Trần Phúc N, sinh ngày 15/01/2015 (hiện cháu N đang sống cùng ông K). Khi ly hôn bà L đồng ý giao cháu N cho ông K trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

Về tài sản chung: Trong thời gian chung sống bà và ông K không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Quá trình chung sống vợ chồng bà và ông K không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông Nguyễn Quốc K trình bày:

Về hôn nhân: Ông và bà Trần Thị L tự nguyện chung sống vợ chồng vào năm 2009 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đối với việc bà L yêu cầu ly hôn với ông thì ông đồng ý do cuộc sống chung không còn hạnh phúc.

Về con chung: Trong thời gian chung sống ông và bà L có 01 con chung là cháu Trần Phúc N, sinh ngày 15/01/2015 (hiện cháu N đang sống cùng ông K). Khi ly hôn ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu N, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Trong thời gian chung sống ông và bà L không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Quá trình chung sống vợ chồng ông và bà L không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm về thủ tục tố tụng và nội dung vụ án:

- Về thủ tục tố tụng: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa, xét thấy Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu đã thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu không có ý kiến gì.

- Về nội dung vụ án: Xét thấy vào năm 2009 bà Trần Thị L và ông Nguyễn Quốc K tự nguyện chung sống vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên có đủ cơ sở để tuyên bố không công nhận bà Trần Thị L và ông Nguyễn Quốc K là vợ chồng. Về con chung: Ông K yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Phúc N, sinh ngày 15/01/2015 và bà L đồng ý với yêu cầu này nên cần được ghi nhận. Bà L không phải cấp dưỡng nuôi con do ông K không yêu cầu. Về tài sản chung, về nợ chung: Không có nên không đặt ra giải quyết tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án; ý kiến của đương sự; quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát; sau khi thảo luận, nghị án; Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn là bà Trần Thị L K kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là ông Nguyễn Quốc K nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là ông K, trú tại khóm Đ, phường M, thành phố S, tỉnh Bạc Liêu nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông K có yêu cầu xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo qui định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2009, bà Trần Thị L và ông Nguyễn Quốc K tự nguyện chung sống vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn nên bà L xin ly hôn và ông K cũng đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử thấy rằng việc bà L với ông K chung sống vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử không giải quyết yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị L mà tuyên bố không công nhận bà Trần Thị L và ông Nguyễn Quốc K là vợ chồng.

[4] Về con chung: Bà L với ông K thống nhất xác định trong thời gian chung sống ông bà có 01 con chung là cháu Trần Phúc N, sinh ngày 15/01/2015 (hiện cháu N đang sống cùng ông K). Ông K yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu N, không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con và bà L đồng ý. Hội đồng xét xử xét thấy sự thỏa thuận của bà L và ông K là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Tòa án ghi nhận.

[5] Về tài sản chung: Bà L và ông K thống nhất xác định trong thời gian chung sống ông bà không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết tại phiên tòa hôm nay.

[6] Về nợ chung: Bà L và ông K thống nhất xác định trong thời gian chung sống ông bà không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết tại phiên tòa hôm nay.

[7] Về án phí: Bà L yêu cầu ly hôn với ông K nên bà L phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng.

Trên cơ sở phân tích nêu trên có cơ sở chấp nhận toàn bộ lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1/. Không công nhận bà Trần Thị L và ông Nguyễn Quốc K là vợ chồng.

2/. Về con chung: Giao cháu Trần Phúc N, s inh ngày 15/01/2015 cho ông Nguyễn Quốc K trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục (hiện cháu N đang sống cùng ông K). Bà Trần Thị L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở. Ông K không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con.

3/. Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

4/. Về án phí: Bà Trần Thị L phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Bà L đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0000395 ngày 14/03/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu, nay được chuyển thu án phí.

Bà L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông K được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 25/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;