Bản án 07/2018/HSST ngày 10/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 07/2018/HSST NGÀY 10/04/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2017/TLST-HS, ngày 24 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐXXST-HS, ngày 21 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Thanh V. tên gọi khác là Nguyễn Thanh V, sinh năm: 1994 tại huyện Cù Lao Dung; Nơi cư trú: ấp B, xã A, huyện C, tỉnh S; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; bị cáo không biết cha mẹ ruột; tiền án: 01; tiền sự: không; vợ và con: không có; bị cáo đang chấp hành án theo quyết định thi hành án số 72/2017/QĐ – CA, ngày 22 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, thời hạn chấp hành án kể từ ngày 23 tháng 6 năm 2017 đến nay “Có mặt”.

- Bị hại: Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1977; Cư trú tại: Ấp B, xã A, huyện C, tỉnh S “Có mặt”.

-  Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

+ Lê Thị Kiều O, sinh năm: 1960; Cư trú tại: Quốc lộ 1, khóm 2, phường 10, thành phố S, tỉnh S “Vắng mặt”.

+ Nguyễn Ngọc B, sinh năm: 1970; Cư trú tại: Ấp B xã A, huyện C, tỉnh S “Vắng mặt”.

+ Nguyễn Thị Tuyết Th, sinh năm: 1979; Cư trú tại: Ấp B, xã A, huyện C tỉnh S “Vắng mặt”.

+ Nguyễn Hoàng Ph, sinh năm: 1963; Cư trú tại: Ấp Ấp B, xã A, huyện C, tỉnh S “Vắng mặt”.

+ Huỳnh Thị Nguyệt M, sinh năm: 1944; Cư trú tại: Ấp B, xã A, huyện C, tỉnh S “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 01 tháng 6 năm 2017, Nguyễn Thanh V (V) nằm võng trước nhà của bà Huỳnh Thị Nguyệt M, V (V) phát hiện có 01 (Một) chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 83F3-6935, nhãn hiệu MANGOSTIN, màu đỏ, đậu ngoài lộ 933B cách chổ V (V) nằm khoảng 10 (Mười) mét (chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Ph), không có ai trong coi nên V (V) nảy sinh ý định trộm xe bán lấy tiền chơi game. V (V) đi ra dùng tay phải bứt dây điện khóa xe và đi vào nhà lấy mũ bảo hiểm rồi lên xe khởi động máy điều khiển xe trộm được chạy lên thành phố Sóc Trăng, tinh Sóc Trăng. V (V) ghé vào tiệm game của bà Lê Thị Kiều O, ngụ tại khóm 2 phường 10 thành phố S để chơi game bắn cá. V (V)  đã cầm chiếc xe vừa trộm được cho một người thanh niên không rõ họ tên và địa chỉ được số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), V (V) chơi game hết 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng), còn lại 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) V (V) đã tiêu xài cá nhân hết. Sau đó, V (V) đến Công an huyện C để đầu thú và thừa nhận việc trộm xe mô tô của V (V).

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 11/2017/KL.HĐĐG ngày 13 tháng 6 năm 2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cù Lao Dung kết luận 01 (Một) chiếc xe mô tô 02 bánh mang biển kiểm soát 83F3-6935, nhãn hiệu MANGOSTIN, màu đỏ có giá trị là 2.300.000 đồng (Hai triệu ba trăm nghìn đồng), chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Ph.

Trên cơ sở kết quả điều tra và những tài liệu, chứng cứ thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Cù Lao Dung khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thanh V (V) về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Vật chứng trong vụ án: Trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cù Lao Dung đã quyết định thu giữ 01 (Một) chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 83F3 - 6935, nhãn hiệu MANGOSTIN. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Cù Lao Dung đã quyết định trả lại tài sản cho người bị hại Nguyễn Thị Ph.

Tại bản cáo trạng số: 28/QĐ.KSĐT, ngày 24 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng để xét xử đối với Nguyễn Thanh V (V)  về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

- Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố Nhà nước đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cáo trạng số: 28/QĐ.KSĐT, ngày 24 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung và tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh V (V) về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ sau: Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã đến Công an huyện Cù Lao Dung để đầu thú, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, từ nhỏ bị cáo sống thiếu sự chăm sóc của cha mẹ. Bị cáo có các tình tiết tăng nặng sau: Ngày 06 tháng 9 năm 2012, bị cáo Nguyễn Thanh V (V) bị Tòa án nhân dân thành phố S xử phạt 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009), phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng và khi thực hiện hành vi phạm tội Nguyễn Thanh V (V) đã trên 16 tuổi. Nguyễn Thanh V (V) đã chấp hành xong hình phạt ngày 16 tháng 8 năm 2016. Ngày 18 tháng 7 năm 2017 Nguyễn Thanh V (V) bị Tòa án nhân dân thành phố S tuyên xử 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và đang chấp hành án kể từ ngày 23 tháng 6 năm 2017. Ngày 01 tháng 6 năm 2017 Nguyễn Thanh V (V) lại tiếp tục thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản của người khác, cho nên bị cáo Nguyễn Thanh V (V) thực hiện phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thanh V (V)  từ 12 (Mười hai) đến 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt tù 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù của bản án số 53/2017/HSST, ngày 18 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

- Về trách nhiệm dân sự Bị hại Nguyễn Thị Ph không yêu cầu bị cáo bồi thường gì, nên đề nghị không đặt ra xem xét..

- Về xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Cù Lao Dung đã quyết định trả lại tài sản 01 (Một) chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 83F3 - 6935, nhãn hiệu MANGOSTIN cho người bị hại Nguyễn Thị Ph, nên đề nghị không đặt ra xem xét.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị hại Nguyễn Thị Ph:

+Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo V (V).

+  Về trách nhiệm dân sự Bị hại Nguyễn Thị Ph không yêu cầu bị cáo V (V) bồi thường gì.

- Ý kiến của bị cáo V (V): Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung đã truy tố, bị cáo rất ăn năn, hối hận về hành vi của mình đã gây ra, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cù Lao Dung, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với những người làm chứng Lê Thị Kiều O, Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Thị Tuyết Th, Nguyễn Hoàng Ph, Huỳnh Thị Nguyệt M vắng mặt tại phiên tòa. Do trước đó những người làm chứng đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, việc vắng mặt của họ tại phiên tòa hôm nay không ảnh hưởng đến việc xét xử, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt những người làm chứng Lê Thị Kiều O, Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Thị Tuyết Th, Nguyễn Hoàng Ph, Huỳnh Thị Nguyệt M.

[3] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Thanh V (V) thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là: Vào khoảng 08 giờ ngày 01 tháng 6 năm 2017, Nguyễn Thanh V (V) nằm võng trước nhà của bà Huỳnh Thị Nguyệt M, V (V) phát hiện có 01 (Một) chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 83F3-6935, nhãn hiệu MANGOSTIN, màu đỏ, đậu ngoài lộ 933B cách chổ V (V) nằm khoảng 10 (Mười) mét (chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Ph), không có ai trong coi nên V (V) nảy sinh ý định trộm xe bán lấy tiền chơi game. V (V) đi ra dùng tay phải bứt dây điện khóa xe và đi vào nhà lấy mũ bảo hiểm rồi lên xe khởi động máy điều khiển xe trộm được chạy lên thành phố Sóc Trăng, tinh Sóc Trăng. V (V) ghé vào tiệm game của bà Lê Thị Kiều O, ngụ tại khóm 2 phường 10 thành phố S để chơi game bắn cá. V (V)  đã cầm chiếc xe vừa trộm được cho một người thanh niên không rõ họ tên và địa chỉ được số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), V (V) chơi game hết 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng), còn lại 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) V (V) đã tiêu xài cá nhân hết. Sau đó, V (V) đến Công an huyện Cù Lao Dung để đầu thú và thừa nhận việc trộm xe mô tô của V (V).

[4]  Đối với lời khai nhận tội và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo V (V) xét thấy lời thừa nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thể hiện là người bình thường đủ năng lực hành vi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người trên 18 tuổi, bị cáo nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn  thực hiện hành vi phạm tội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu đối với tài sản của công dân nói chung, tài sản của bị hại Ph nói riêng, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân. Hành vi này của bị cáo cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Vì vậy, Cáo trạng số 28/QĐ.KSĐT, ngày 24 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, để có tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Ngày 06 tháng 9 năm 2012, bị cáo Nguyễn Thanh V (V) bị Tòa án nhân dân thành phố S xử phạt 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009), phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng và khi thực hiện hành vi phạm tội Nguyễn Thanh V (V) đã trên 16 tuổi. Nguyễn Thanh V (V) đã chấp hành xong hình phạt ngày 16 tháng 8 năm 2016. Ngày 18 tháng 7 năm 2017 Nguyễn Thanh V (V) bị Tòa án nhân dân thành phố S tuyên xử 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và đang chấp hành án kể từ ngày 23 tháng 6 năm 2017. Ngày 01 tháng 6 năm 2017 Nguyễn Thanh V (V) lại tiếp tục thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản của người khác cho nên bị cáo Nguyễn Thanh V (V) thực hiện phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo đang chấp hành án theo quyết định thi hành án số 72/2017/QĐ – CA, ngày 22/8/2017 của Tòa án nhân dân nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, thời hạn chấp hành án kể từ ngày 23 tháng 6 năm 2017, đây sẽ là cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo V (V) thấy rằng, trước khi lượng hình cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã đến Công an huyện Cù Lao Dung để đầu thú, từ nhỏ bị cáo sống thiếu sự chăm sóc của cha mẹ. Vì vậy, căn cứ vào điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng là đúng pháp luật.

 [7] Đối với ý kiến của bị hại Nguyễn Thị Ph: 

+ Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo V (V), đề nghị này Hội đồng xét xử sẽ xem xét.

+ Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại không yêu cầu bị cáo V (V) bồi thường gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. 

[8] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án là 01 (Một) chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 83F3 - 6935, nhãn hiệu MANGOSTIN. Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Cù Lao Dung đã quyết định trả lại tài sản cho người bị hại Nguyễn Thị Ph theo Quyết định xử lý vật chứng

ngày 26 tháng 9 năm 2017, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh V (V) là người bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 138, Điều 33, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 1999 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh V (Tên gọi khác là: Nguyễn Thanh V) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh V (Tên gọi khác là: Nguyễn Thanh V) 01 (Mt) năm tù, tổng hợp hình phạt 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù của bản án số 53/2017/HSST, ngày 18 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, hình phạt chung đối với bị cáo Nguyễn Thanh V (V)  là 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23 tháng 6 năm 2017.

 - Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại Nguyễn Thị Ph không có yêu cầu gì đối với bị cáo V (V), nên không đặt ra xem xét.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án xử buộc bị cáo Nguyễn Thanh V (V) phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

- Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 07/2018/HSST ngày 10/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;