TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐÔNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 07/2017/HSST NGÀY 14/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 11 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên tiến hành xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2017/HSST ngày 23/10/2017 đối với bị cáo:
Lò Văn S (tên gọi khác: Không) - Sinh năm: 1976.
Nơi sinh: Xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.
Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Chỗ ở hiện nay: Bản M, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hóa: Không học.
Con ông: Lò Văn L (đã chết) và bà: Lò Thị T - sinh năm: 1938.
Vợ, con: Không có.
Tiền án: Không; Tiền sự: Không.
Bị tạm giữ từ ngày 17/6/2017 đến ngày 23/6/2017; tạm giam từ ngày 23/6/2017 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người phiên dịch: Bà Vừ Thị X - Sinh năm 1983. Trú tại tổ 10, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Có mặt phiên tòa.
NHẬN THẤY
Bị cáo Lò Văn S bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 16 tháng 6 năm 2017, Lò Văn S mang theo 100.000đ đi bộ đến nhà ông Vừ Giống V và bà Sùng Thị K ở bản M1, xã X, huyện D, tỉnh Điện Biên, khi đến nơi Lò Văn S gặp bà Sùng Thị K ở nhà và hỏi mua được 01 gói Hêrôin với giá 100.000đ. Sau khi mua được Hêrôin, Lò Văn S quay về bản M2, xã X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên làm thuê đến 14 giờ cùng ngày trên đường đi đến bản bản N, xã X để tiếp tục tìm việc làm thuê thì bị tổ công tác Công an xã X phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng là một gói chất bột trắng nghi là Hêrôin được gói bằng mảnh ni- lon màu trắng.
Tại biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng hồi 08 giờ 00 phút, ngày 17/6/2017, xác định gói chất bột trắng nghi là Hêrôin thu giữ của Lò Văn S có trọng lượng là 0,41 gam. Trích 0,16 gam gửi giám định. Tại bản kết luận giám định số: 542/GĐ-PC54 ngày 05/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận mẫu gửi giám định thu của Lò Văn S là Hêrôin, không hoàn lại mẫu vật.
Tại Cáo trạng số: 52/QĐ-VKS-HS ngày 23 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên truy tố Lò Văn S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên Đông vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn S cả về tội danh và điều luật áp dụng. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH13 ngày 20/6/2017 của Quốc hội áp dụng các quy tắc có lợi cho người phạm tội. Xử phạt bị cáo Lò Văn S từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự và Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng còn lại sau giám định là 0,25 gam Hêrôin; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa, Bị cáo Lò Văn S không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo;
XÉT THẤY
Xét về hành vi của bị cáo Lò Văn S: Tại phiên tòa bị cáo S đã khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố, bị cáo khai nhận vào ngày 16/6/2017 mua của bà Sùng Thị Kở bản M1, xã X, huyện Đ một gói Hêrôin với giá 100.000đ với mục đích để sử dụng cho bản thân. Đến 17 giờ 10 phút cùng ngày thì bị Công an huyện Đ, tỉnh Điện Biên phát hiện bắt quả tang.
Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 17 giờ 30 phút ngày 16/6/2017; vật chứng vụ án là gói chất bột trắng có trọng lượng 0,41 gam qua giám định xác định là Hêrôin và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn S là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; cố ý mua 0,41 gam Hêrôin về sử dụng đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nên đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy định khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH13 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 xét thấy tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017) có khung hình từ 01 năm đến 05 năm là nhẹ hơn so với khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 cho nên cần áp dụng có lợi cho bị cáo.
Xét về tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của bị cáo Lò Văn S tuy chỉ mang tính chất giản đơn, mua tàng trữ sử dụng dần nhưng hành vi đó bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng bị cáo cố tình vi phạm nên cần phải xử lý nghiêm minh để giữ dìn kỷ cương phép nước.
Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lò Văn S thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999.
Xét về nhân thân: Bị cáo là người có hoàn cảnh đặc biệt, bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng xa không biết ở đây, anh em làm ăn sinh sống ở xa nên 11 tuổi bị cáo phải đi làm thuê, ở đợ cho người Mông ở bản M, xã X cho nên không được học hành và còn quên cả tiếng nói dân tộc mình, chỉ nói được tiếng dân tộc Mông. Đến nay, bị cáo chưa có vợ, con. Tuy nhiên, bị cáo có sức khỏe, tuổi đời còn trẻ cần tu chí làm ăn để thay đổi cuộc sống nhưng lại không vượt qua được sự cám dỗ của ma túy dẫn đến nghiện ma túy từ năm 2012, từ nghiện chất ma túy dẫn bị cáo phạm tội như ngày hôm nay. Đứng trước vành móng ngựa chịu sự trừng phạt của pháp luật bị cáo có ân hận thì cũng đã muộn.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi và tính chất phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục, đồng thời để cai nghiện cho bị cáo mong rằng sau này bị cáo sẽ trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, Lò Văn S có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đến 500 triệu đồng, tuy nhiên xét thấy bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không có nhà cửa, tài sản gì mà chỉ đi làm thuê kiếm sống qua ngày và bản thân bị nghiện chất ma túy. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
Về vật chứng vụ án gồm: 0,41 gam Hêrôin đã giám định hết 0,16 gam, còn lại 0,25 gam là chất thuộc Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ theo quy định của pháp luật.
Đối với bà Sùng Thị K ở bản M1, xã X, huyện Đ theo lời khai của bị cáo là người đã bán Hêrôin cho bị cáo. Tuy nhiên quá trình điều tra bà K không có mặt tại địa phương nên chưa đều tra xử lý trong vụ án này được Hội đồng xét xử cần chấp nhận. Tuy nhiên Hội đồng xét xử kiến nghị với cơ quan điều tra công an huyện Đ tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Lò Văn S là dân tộc thiểu số, sinh sống tại xã đặc biệt khó khăn nên cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn S (tên gọi khác: không) phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009); điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Xử phạt bị cáo Lò Văn S 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (17/6/2017).
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 0,25 gam Hêrôin. Vật chứng trên đã được niêm phong và bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 23/10/2017 giữa cơ quan Công an huyện Đ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ.
3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn S.
Án xử công khai sơ thẩm, kết thúc cùng ngày. Bị cáo Lò Văn S được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 14/11/2017)./
Bản án 07/2017/HSST ngày 14/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 07/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên Đông - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về