TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 07/2017/HSST NGÀY 01/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2017/HSST ngày 06/11/2017 đối với bị cáo: Dương Văn L, sinh năm 1982; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã Đ, huyện B, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 4/12; Con ông: Dương Văn Q (Đã chết) và bà La Thị T; vợ Hoàng Thị Đ; con: có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: 01 (Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 319/QĐ-XPHC ngày 04/5/2017 của Công an huyện Ba Bể đã xử phạt Dương Văn L 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng về hành vi Trộm cắp tài sản. Về nhân thân: Ngày 07/11/2017 bị cáo Dương Văn L bị Tòa án nhân dân huyện Ba Bể phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị tạm giam từ ngày 19/6/2017 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng:
1. Anh Vương Thanh T, Sinh năm 1988, trú tại: Tiểu Khu 9, thị trấn C, huyện B, tỉnh B. Có mặt.
2. Anh Dương Văn D, Sinh năm 1982, trú tại: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh B. Vắng mặt.
3. Anh Hoàng Văn C, Sinh năm 1979, trú tại: Thôn T, xã M, huyện B, tỉnh B. Vắng mặt.
4. Anh Nguyễn Chính Đ, Sinh năm 1996, trú tại: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh B. Vắng mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Dương Văn L bị Viện kiểm sát nhân dân huyên Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Ngày 19/6/2017, Tổ công tác Công an huyện Ba Bể đang làm nhiệm vụ tại xã Đ, huyện B thì nhận được tin báo của quần chúng nhân dân cung cấp về việc đối tượng Dương Văn L có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Khi tổ công tác đến thôn N, xã Đ, huyện B thì Dương Văn L đang đứng trên đường 258, thấy tổ công tác L đã vứt 01 gói nhỏ được gói bằng giấy vệ sinh màu trắng xuống lề đường, tổ công tác phát hiện và kiểm tra trong gói giấy vệ sinh có 03 gói nhỏ chứa chất bột màu trắng (Trong đó: Có 02 gói được gói bằng giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng; 01 gói được gói bằng giấy có nhiều màu) nên đã tạm giữ và niêm phong 03 gói nhỏ chứa chất bột màu trắng vào trong phong bì có ký hiệu A1. L khai nhận 03 gói nhỏ Cơ quan điều tra tạm giữ của L là ma túy (Hêrôin). Ngoài ra, còn tạm giữ tại túi quần bên trái đang mặc của L số tiền 2.427.000 (Hai triệu bốn trăm hai mươi bảy nghìn) đồng và 01 điện thoại di động.
Sau khi bắt quả tang , Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Bể đã ra lệnh và tiến hành khám xét khẩn cấp đối với nơi ở và các công trình phụ cận có liên quan của Dương Văn L thuộc thôn N, xã Đ, huyện B. Quá trình khám xét, L tự giác chỉ vị trí cất giấu 18 gói chứa chất bột màu trắng (Trong đó: Có 11 gói được gói bằng giấy màu vàng; 07 gói được gói bằng giấy nhiều màu có chữ, đều để trong túi nilon màu trắng, miệng túi viền màu đỏ) tại mái nhà để củi phía trước bên trái nhà ở của L. Tæ c«ng t¸c ®· thu giữ và niªm phong 18 gói nhỏ chứa chất bột màu trắng vào trong phong b× ký hiÖu A2. Ngoài ra, còn thu giữ được 01 dao lam, 01 mảnh nilon màu trắng tại trên giường ngủ của L.
Bị cáo Dương Văn L khai nhận: Bản thân là người nghiện ma tuý (Hêrôin), để có ma túy, ngày 19/6/2017 L đi đến đằng sau bến xe khách Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mua với một người đàn ông không rõ lai lịch 01 gói ma túy với giá 1.050.000 (Một triệu không trăm năm mươi nghìn) đồng rồi đem về chia thành nhiều gói nhỏ, mục đích để bản thân sử dụng và bán lại cho những người nghiện khác để kiếm lời. Cụ thể, bị cáo tự giác khai nhận trong ngày 19/6/2017 tại thôn N, xã Đ, huyện B, L đã được bán ma túy cho những người nghiện sau: Khoảng 14 giờ bán cho Vương Thanh T (Trú tại: Tiểu khu 9, thị trấn C, huyện B) 02 gói ma túy với giá 200.000 đồng tại trong nhà của L; Khoảng 15 giờ bán cho Dương Văn D (Trú tại: Thôn N, xã T, huyện B) 02 gói ma túy với giá 200.000 đồng tại sân nhà của L; Khoảng 15 giờ 30 bán cho Hoàng Văn C (Trú tại: Thôn T, xã M, huyện B) 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng, bán cho Nguyễn Chính Đ (Trú tại: Thôn N, xã T, huyện B) 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng, đều tại dưới nhà của L. Quá trình bắt quả tang và khám xét Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ của Dương Văn L được 21 gói nhỏ bên trong chứa chất bột màu trắng là Hêrôin có tổng trọng lượng 0,57 gam, số tiền 2.427.000 (Hai triệu bốn trăm hai mươi bảy nghìn) đồng (Trong đó: có 600.000 (Sáu trăm nghìn) đồng là tiền bán ma túy, còn 1.827.000 (Một triệu tám trăm hai mươi bảy nghìn) đồng là tiền bán bí xanh), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Flybee là chiếc điện thoại dùng vào việc liên lạc mua bán ma túy với những người nghiện; còn 01 dao lam và 01 mảnh nilon màu trắng là vật dụng L dùng để chia ma túy thành nhiều gói nhỏ.
Các đối tượng Vương Thanh T, Dương Văn D, Hoàng Văn C, Nguyễn Chính Đ đều thừa nhận bản thân là người nghiện ma túy và được mua ma túy với Dương Văn L nhà ở thôn N, xã Đ, huyện B về để sử dụng và những người nghiện này không có mâu thuẫn với L. Vào ngày 19/6/2017, T, D được mua mỗi người 02 gói ma túy đều với trị giá 200.000 đồng, địa điểm mua bán là tại nhà của L; C, Đ mua mỗi người 01 gói ma túy đều trị giá 100.000 đồng, địa điểm mua bán là tại đường 258 dưới nhà của L.
Số chất bột màu trắng thu giữ được của Dương Văn L có tổng trọng lượng (khối lượng) là 0,57 gam (Trong đó: 03 gói chất bột màu trắng thu giữ tại hiện trường bắt quả tang là 0,09 gam; 18 gói chất bột màu trắng thu trong lúc khám xét là 0,48 gam). Toàn bộ số chất bột màu trắng đã được niêm phong trong phong bì ký hiệu B1 gửi cho Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ba Bể để trưng cầu giám định.
Tại Kết luận giám định số 96/KTHS-MT ngày 13/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của vụ án Dương Văn L được niêm phong trong phong bì B1 gửi giám định là chất ma túy, loại Hêrôin. Sau giám định, mẫu chất còn lại 0,549 gam cùng phong bì, bao gói cũ được niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T96 và hoàn trả lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Bể quản lý theo quy định. Về vật chứng và tài sản tạm giữ trong vụ án gồm:
- Số ma tuý (Hêrôin) 0,549 gam đã niêm phong trong phong bì T96; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Flybee; 01 dao lam; 01 mảnh nilon màu trắng được chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể để quản lý theo quy định.
- Số tiền 2.427.000 (Hai triệu bốn trăm hai mươi bảy nghìn) đồng được chuyển vào tài khoản tạm gửi của Kho bạc Nhà nước huyện Ba Bể.
Tại bản cáo trạng số 42/KSĐT ngày 03 tháng 11 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể đã truy tố bị cáo Dương Văn L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; Điều 33; điểm o điểm p khoản 1 khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo L từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa bị cáo Dương Văn L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án cụ thể: Ngày 19/6/2017, tại thôn N, xã Đ, huyện B, Dương Văn L đã có hành vi nhiều lần bán ma túy trái phép cho nhiều người nghiện, cụ thể: L được bán cho Vương Thanh T, Dương Văn D mỗi người 02 gói ma túy đều với giá 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, bán cho Hoàng Văn C, Nguyễn Chính Đ mỗi người 01 gói ma túy đều với giá 100.000 (Một trăm nghìn) đồng. Tổng số tiền bán ma túy cho bốn người bị cáo có được là 600.000 (Sáu trăm nghìn) đồng. Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương nên cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc mới đủ sức giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Khi bị cơ quan điều tra bắt giữ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đã tự giác khai báo về hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội tự thú và người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại các điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình. Ngoài ra, gia đình bị cáo thuộc diện gia đình chính sách của Nhà nước nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: Bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính và đã từng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc tại tỉnh Vĩnh Phúc, ngày 07/11/2017 đã bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Về hình phạt bổ sung: Qua tài liệu xác minh của cơ quan điều tra xác định: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo, không có tài sản, không có khả năng để thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Trong vụ án có các đối tượng Vương Thanh T, Dương Văn D, Hoàng Văn C, Nguyễn Chính Đ được mua ma túy với bị cáo nhưng chỉ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích mua bán, hành vi của đối tượng nàykhông cấu thành tội phạm nên cơ quan điều tra đã xử lý hành chính là đúng quy định pháp luật.
Về xử lý vật chứng:
- 01(Một) phong bì mẫu hoàn trả niêm phong ký hiệu T96. Bên trong phong bì có chứa: Mẫu chất phong bì ký hiệu B1 còn lại là 0,549 gam cùng phong bì, bao gói cũ. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn. Mặt trước phong bì có ghi “Mẫu trả vụ Dương Văn L (1982), mua bán trái phép chất ma túy, ký hiệu T96, mặt sau có 04 chữ ký không đọc được cùng hai dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ba Bể; 01 (Một) dao lam; 01 (Một) mảnh nilon màu trắng không có giá trị sử dụng tịch thu tiêu hủy.
- 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Flybee, màn hình cảm ứng, điện thoại đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện liên quan đến việc phạm tội tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước.
- Đối với số tiền 2.427.000 (Hai triệu bốn trăm hai mươi bảy nghìn) đồng tạm giữ tại tài khoản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể tại Kho bạc Nhà nước huyện Ba Bể, trong đó có 600.000 (Sáu trăm nghìn) đồng là tiền bị cáo bán ma túy mà có cần tịch thu sung quỹ nhà nước, số còn lại 1.827.000 (Một triệu tám trăm hai mươi bảy nghìn) đồng không liên quan đến việc phạm tội trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Dương Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; Điều 33; điểm o điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt:
Bị cáo Dương Văn L 07 (Bảy) năm tù, thời hạn tính từ ngày bắt tạm giam 19/6/2017.
2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a điểm c điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01(Một) phong bì mẫu hoàn trả niêm phong ký hiệu T96. Bên trong phong bì có chứa: Mẫu chất phong bì ký hiệu B1 còn lại là 0,549 gam cùng phong bì, bao gói cũ. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn. Mặt trước phong bì có ghi “Mẫu trả vụ Dương Văn L (1982), mua bán trái phép chất ma túy, ký hiệu T96, mặt sau có 04 chữ ký không đọc được cùng hai dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn; 01 (Một)dao lam; 01 (Một) mảnh nilon màu trắng.
- Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Flybee, màn hình cảm ứng, điện thoại đã qua sử dụng.
- Đối với số tiền 2.427.000 (Hai triệu bốn trăm hai mươi bảy nghìn) đồng tạm giữ tại tài khoản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể tại Kho bạc Nhà nước huyện Ba Bể cần tịch thu 600.000 (Sáu trăm nghìn) đồng để sung quỹ nhà nước; tạm giữ số tiền còn lại là 1.827.000 (Một triệu tám trăm hai mươi bảy nghìn) đồng để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.
Bị cáo Dương Văn L phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn ) đồng án phí Hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.
"Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự"
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 07/2017/HSST ngày 01/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 07/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về