Bản án 06/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng dịch vụ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 06/2023/KDTM-ST NGÀY 11/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ

Ngày 11/9/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; xét xử sơ thẩm công khai vụ thụ lý số: 24/2023/TLST- KDTM ngày 06 tháng 7 năm 2023, về việc ''Tranh chấp Hợp đồng dịch vụ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2023/QĐXXST-KDTM ngày 10/8/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2023/QĐST-KDTM ngày 25/8/2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H;

Địa chỉ trụ sở: CL8-11, khu đô thị H, phường Đ, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Hoàng Minh H, chức vụ: Giám đốc. Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Dương Văn H1, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Chung cư Đ, khu 2 Y Na, phường K, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (Có mặt).

Bị đơn: Công ty TNHH bao bì E;

Địa chỉ trụ sở: Nhà xưởng số 2 và số 3, Lô F; phân khu T (Thuộc KCN Tiên Sơn mở rộng), xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, Bắc Ninh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông C, chức vụ: Tổng Giám đốc (Vắng mặt);

Địa chỉ: Nhà xưởng số 2 và số 3, Lô F phân khu T (Thuộc KCN Tiên Sơn mở rộng), xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/7/2023, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn xuất trình và tại phiên tòa đại diện nguyên đơn trình bày:

Ngày 10/12/2022 Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H và Công ty TNHH bao bì E đã ký hợp đồng Công trình số 10122022/HĐCT/BBEC-HTD. Nội dung hợp đồng là Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H sẽ thi công công trình cải tạo nhà xưởng, lắp đặt hệ thống điện nước xưởng 03 của Công ty TNHH bao bì E có địa chỉ: Lô F Phân khu T (Thuộc KCN Tiên Sơn mở rộng), Xã Hoàn Sơn, Huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh. Giá trị của Hợp đồng là 1.324.235.520 đồng - Phụ lục số 10122022/HĐCT/BBEC-HTD-01 ngày 26/12/2022. Tổng giá trị của Hợp đồng là 1.814.623.233 đồng (một tỷ, tám trăm mười bốn triệu, sáu trăm hai mươi ba nghìn, hai trăm hai mươi ba đồng) Sau khi ký hợp đồng nêu trên Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H đã thực hiện các nội dung thi công, cải tạo, lắp đặt các hạng mục theo đúng nội dung của hợp đồng và quy định của Pháp luật. Sau khi làm xong công trình hai bên đã thống nhất, xác nhận khối lượng giá trị hoàn thành là 1.630.000.000 đồng.

Ngày 20/01/2023, Công ty TNHH bao bì E đã thanh toán một phần của hợp đồng là: 397.270.656 đồng (ba trăm chín mươi bảy triệu, hai trăm bẩy mươi nghìn, sáu trăm năm mươi sáu đồng), số tiền còn lại Công ty TNHH bao bì E chưa thanh toán cho Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H là 1.232.729.344 đồng (Một tỷ, hai trăm ba mươi hai triệu, bẩy trăm hai mươi chín nghìn, ba trăm bốn mươi bốn đồng). Đến nay Công ty TNHH bao bì E chưa thanh toán cho nguyên đơn.

Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ H đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng Công trình số 10122022/HĐCT/BBEC-HTD ngày 10/12/2022 và phụ lục hợp đồng Công trình 10122022/HĐCT/BBEC-HTD-01 ngày 26/12/2022 cụ thể: Buộc Công ty TNHH bao bì E thanh toán số tiền là 1.232.729.344 đồng (Một tỷ, hai trăm ba mươi hai triệu, bẩy trăm hai mươi chín nghìn, ba trăm bốn mươi bốn đồng) cho Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H.

Ngoài ra Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H không có ý kiến yêu cầu gì khác.

Bị đơn: Công ty TNHH bao bì E do ông C, chức vụ: Tổng Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật vắng mặt tại phiên toà. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, đại diện công ty đã nhận được thông báo thụ lý và giấy triệu tập của Toà án, tuy nhiên không lên Toà án làm việc, Toà án đã xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định và tại phiên toà hôm nay đại diện bị đơn ông C vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng pháp luật; Nguyên đơn chấp hành tốt pháp luật; đại diện của bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp về việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải và các phiên toà. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ các Điều 513; Điều 519 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 74; Điều 85; Điều 317 Luật thương mại năm 2005;

Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQHJ14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H. Buộc Công ty TNHH bao bì E phải thanh toán trả cho Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H số tiền còn nợ là 1.232.729.344 đồng (Một tỷ, hai trăm ba mươi hai triệu, bẩy trăm hai mươi chín nghìn, ba trăm bốn mươi bốn đồng).

Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và các chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền và thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngày 01/7/2023, Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H có đơn khởi kiện đề nghị Toà án buộc Công ty TNHH bao bì E phải trả số tiền còn nợ là 1.232.729.344 đồng, không yêu cầu lãi suất. Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H đã nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định.

Về chủ thể Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H và Công ty TNHH bao bì E là hai công ty, có đăng ký kinh doanh hợp pháp, hoạt động vì mục đích lợi nhuận, việc hai công ty tranh chấp nêu trên Toà án xác định là vụ án kinh doanh thương mại có quan hệ tranh chấp là tranh chấp hợp đồng dịch vụ. Bị đơn trụ sở tại Nhà xưởng số 2 và số 3, Lô F phân khu T (Thuộc KCN Tiên Sơn mở rộng), xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, Bắc Ninh theo Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bắc Ninh thì công ty bị đơn vẫn hoạt động, có trụ sở công ty không thay đổi. Căn cứ vào Hợp đồng dịch vụ ký giữa các bên, trên cơ sở đối chiếu với các quy định tại các Điều 30, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Toà án nhân dân huyện Tiên Du, thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

- Thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo pháp luật của bị đơn là ông C, chức vụ: Tổng giám đốc, Toà án đã triệu tập ông Chen LongXing nhiều lần, ông nhận được thông báo thụ lý và các văn bản tố tụng của Toà án, đã có văn bản uỷ quyền cho bà Nguyễn Thị Vi và mời người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình là ông Trịnh Ngọc Trành, Luật sư công ty Luật TNHH Dân quyền nhưng sau đó bà Vi và ông Thành có đơn chấm dứt uỷ quyền và tham gia tố tụng, Toà án đã thông báo cho bị đơn nhưng ông Chen LongXing không lên làm việc, vắng mặt tại phiên họp công khai chứng cứ và tại các phiên toà ngày 25/8/2023, tại phiên toà hôm nay vẫn vắng mặt. Vì vậy căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H về việc yêu cầu Toà án giải quyết buộc Công ty TNHH bao bì E phải thanh toán cho Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H số tiền là 1.232.729.344 đồng và không yêu cầu lãi suất.

Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 10/12/2022 Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H có ký hợp đồng số 10122022/HĐCT/BBEC-HTD Hợp đồng cải tạo nhà xưởng, lắp đặt hệ thông điện nước xưởng 03 cho Công ty TNHH bao bì E và ngày 26/12/2022 hai bên có ký thêm Phụ lục hợp đồng công trình số 10122022/HĐCR/BBRC-HTD-01. Hợp đồng được hai bên lập thành văn bản, do người có thẩm quyền ký kết, nội dung, thoả thuận và các điều khoản đều thể hiện ý chí tự nguyện của các bên giao kết hợp đồng và phù hợp với quy định của pháp luật về nội dung và hình thức nên hợp đồng này là hợp pháp. Do đó, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thoả thuận đã cam kết.

Sau khi hợp đồng được ký kết hai bên đã tổ chức thực hiện hợp đồng như sau: Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H đã thực hiện các nội dung thi công, cải tạo, lắp đặt các hạng mục theo đúng nội dung hợp đồng và quy định của pháp luật cho Công ty TNHH bao bì E. Đại diện hai bên đã ký Biên bản bàn giao và nghiệm thu ngày 12/4/2023. Theo như biên bản nghiệm thu công trình ngày 12/4/2023 hai bên thống nhất công trình đã hoàn thành ký xác nhận, khối lượng giá trị hoàn thành là 1.630.000.000 đồng (kèm theo có bảng tổng hợp giá trị quyết toán).

Ngày 20/01/2023 Công ty TNHH bao bì E đã trả một phần tiền cho Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H là 397.270.656 đồng, số tiền còn lại Công ty TNHH bao bì E chưa thành toán là 1.232.729.344 đồng. Ngày 12/4/2023 Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H đã xuất hoá đơn giá trị gia tăng và gửi cho công ty TNHH bao bì E.

Theo điều khoản thanh toán hợp đồng (điều 5), bên Công ty TNHH bao bì E sẽ thanh toán cho Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H đến 95% giá trị hợp đồng trong vòng 15 ngày kể từ khi ký biên bản bàn giao và nghiệm thu công trình. Sau nhiều lần làm việc đến nay Công ty TNHH bao bì E vẫn chưa thanh toán mà không có bất kỳ lý do gì chính đáng.

Yêu cầu của Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H là có căn cứ nên được chấp nhận.

[3] Xét lời đề nghị của đại diện VKS nhân dân huyện Tiên Du là có căn cứ nên chấp nhận.

[4] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận vì vậy bị đơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 30, 35, 39, 227, 228, 262, 264, 266, 267, 271, 273 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ các Điều 274, 275, 385, 398, 401, 403, 513, 519 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 74, 85, 87, 317 Luật thương mại năm 2005;

Căn cứ Nghị Quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

phải chịu lãi suất tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2, điều 468 Bộ luật dân sự 2015 cho đến khi thi hành xong.

2. Về án phí Công ty TNHH bao bì E phải chịu 48.981.880 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Hoàn trả cho Công ty TNHH thương mại và dịch vụ H 24.490.940 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: AA/2021/0002516 ngày 06/7/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết hợp lệ theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng dịch vụ

Số hiệu:06/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 11/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;