TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 06/2023/HS-PT NGÀY 29/03/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 29 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 13/2023/TLPT-HS ngày 08 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Vi Xuân T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2022/HS-ST ngày 29-12-2022 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
- Bị cáo có kháng cáo:
Vi Xuân T, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 14/7/1994, tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu D, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Thôn P, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Đồng T và bà Hoàng Thúy M; có vợ là Lã Nguyệt A và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01761/QĐ/XPVPHC ngày 22/11/2010 của Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt tiền 750.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng (đã chấp hành xong); bị cáo bị tạm giam từ ngày 05/9/2022 đến nay.
- Bị hại: Anh Hoàng Văn K, địa chỉ: Thôn Đ, xã K, huyện Q, tỉnh Lạng Sơn (đã chết).
- Người đại diện hợp pháp của bị hại Hoàng Văn K:
+ Bà Hà Thúy M (mẹ bị hại Hoàng Văn K), sinh năm 1959; địa chỉ: Thôn Đ, xã K, huyện Q, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.
+ Chị Lành Thị Đ (vợ bị hại Hoàng Văn K), sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn Đ, xã K, huyện Q, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của bà Hà Thúy M: Chị Lành Thị Đ (vợ bị hại Hoàng Văn K), sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn Đ, xã K, huyện Q, tỉnh Lạng Sơn (theo giấy ủy quyền ngày 21/11/2022).
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đại diện hợp pháp chị Lành Thị Đ: Bà Nguyễn Thanh H - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm T Tỉnh Lạng Sơn, có mặt.
- Bị hại: Anh Lục Văn T, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn C, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hoàng Thúy M, sinh năm 1967; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 27/8/2022, Hoàng Hải Đ điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Mercedes C300 biển kiểm soát 30A-288.xx chở Vi Xuân T từ thị trấn Đ, huyện C đi thành phố L xem đá bóng. Sau đó, Vi Xuân T cùng Hoàng Hải Đ đến nhà hàng Z tại đường B, thành phố L để ăn uống. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Vi Xuân T hỏi mượn xe ô tô của Hoàng Hải Đ để về thị trấn Đ trước. Sau đó Vi Xuân T một mình điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 30A -288.xx từ thành phố L theo Quốc lộ 1A hướng Hà Nội - Hữu Nghị để về thị trấn Đ, huyện C. Khi đi đến khu vực Km 3+200 Quốc lộ 1A thuộc khu V, thị trấn Đ, huyện C (là ngã ba giao nhau giữa Quốc lộ 1A và đường N, trên trục đường Quốc lộ 1A có lắp đặt biển cảnh báo giao nhau với đường không ưu tiên), Vi Xuân T điều khiển xe ô tô chuyển hướng rẽ trái từ Quốc lộ 1A vào đường N. Trong khi chuyển hướng, do không chú ý quan sát, không giảm tốc độ nên xe ô tô của Vi Xuân T va chạm với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 12U1 - 029.xx do anh Hoàng Văn K điều khiển chở Lục Văn T đang đi hướng Hữu Nghị - Hà Nội, khiến anh Hoàng Văn K và anh Lục Văn T văng ra khỏi xe ngã xuống đường, còn xe ô tô của Vi Xuân T tiếp tục di chuyển đến khu vực đầu đường N thì dừng lại.
Sau khi tai nạn xảy ra, Vi Xuân T ngồi trên xe ô tô khoảng 03 - 05 phút rồi xuống xe, tiến đến vị trí anh Hoàng Văn K đang nằm, dùng tay kéo tay Hoàng Văn K dậy thì những người dân có mặt tại nơi xảy ra tai nạn bất bình về hành động của Vi Xuân T, lúc này giữa Vi Xuân T và người dân xảy ra tranh cãi. Do không kiềm chế được bản thân, Vi Xuân T giằng co xô đẩy, đuổi, đe dọa những người dân xung quanh. Sau đó, Vi Xuân T để lại ô tô tại hiện trường, không cứu giúp người bị nạn mà một mình thuê xe ôm đến nhà nghỉ H tại thôn P, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn ngủ. Còn anh Hoàng Văn K và anh Lục Văn T được anh Hoàng Văn T, anh Hoàng Mạnh H, anh Hoàng Văn Th, anh Hoàng Văn H (là những người làm cùng công ty với Hoàng Văn K và Lục Văn T) đưa đi Bệnh viện đa khoa tỉnh Lạng Sơn cấp cứu. Sau khi đến bệnh viện, anh Hoàng Văn K tử vong, còn anh Lục Văn T bị thương điều trị tại bệnh viện.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 60/2022/TT ngày 30/8/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Lạng Sơn kết luận đối với tử thi anh Hoàng Văn K: Tình trạng đa chấn thương, chấn thương ngực bụng kín; nguyên nhân chết: Suy tuần hoàn, suy hô hấp, mất máu cấp hậu quả của chấn thương ngực bụng, dập vỡ gan, dập phổi do tương tác với vật tày lực quán tính lớn; thời gian chết dưới 48 giờ.
Tại Bản kết luận pháp y về hóa pháp số 915/PY-XNĐH ngày 16/9/2022 của Viện Pháp y Quân đội kết luận mẫu máu của anh Hoàng Văn K gửi giám định không có Ethanol và không phát hiện thấy các chất ma túy (Morphin, Heroin, Codein, Cocain, Amphetamin, Methamphetamin, MDA, MDMA, Ketamin, LSD, Cần sa).
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 223/2022/PYTT ngày 04/10/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Lạng Sơn kết luận đối với thương tích của Lục Văn T: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể hiện tại theo phương pháp cộng là 30% (ba mươi phần trăm).
Tại Bản kết luận giám định số 100/GĐKT-ĐK ngày 26/9/2022 của Công ty Cổ phần Đăng kiểm xe cơ giới Lạng Sơn kết luận: Khi xảy ra tai nạn, các hệ thống an toàn của xe ô tô biển kiểm soát 30A-288.17 và xe mô tô biển kiểm soát 12U1-029.92 đầy đủ, hoạt động bình thường và đảm bảo an toàn kỹ thuật.
Tại các Bản kết luận định giá tài sản số 49, 50/KL-HĐĐGTS ngày 03/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện C kết luận: Tổng tài sản hư hỏng cần định giá của xe ô tô, nhãn hiệu Mercedes C300 biển kiểm soát 30A - 288.xx là 98.050.000 đồng, của xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biểm kiểm soát 12U1 - 029.xx là 3.900.000 đồng.
Bị cáo Vi Xuân T có giấy phép lái xe ô tô hạng B2 và anh Hoàng Văn K có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 do Cơ quan có thẩm quyền cấp.
Căn cứ kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện, thu thập lời khai người làm chứng, người liên quan xác định nguyên nhân xảy ra tai nạn có lỗi của Vi Xuân T điều khiển xe ô tô không giảm tốc độ khi có biển cảnh báo nguy hiểm và chuyển hướng không đảm bảo an toàn. Hành vi của Vi Xuân T đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ quy định về Quy tắc chung “Người tham gia giao thông phải đi bên phải đường theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ” và khoản 2 Điều 15 Luật Giao thông đường bộ "Trong khi chuyển hướng, người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải nhường quyền đi trước cho người đi bộ, người đi xe đạp đang đi trên phần đường dành riêng cho họ, nhường đường cho các xe đi ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc nguy hiểm cho người và phương tiện khác".
Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại Hoàng Văn K yêu cầu bị cáo bồi thường 800.000.000 đồng, anh Lục Văn T yêu cầu bị cáo bồi thường 41.000.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường cho gia đình anh Hoàng Văn K số tiền 20.000.000 đồng, bồi thường cho anh Lục Văn T 21.000.000 đồng. Ông Hoàng Đức D chủ sở hữu xe ô tô biển kiểm soát 30A-288.17 không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự.
Với hành vi nêu trên tại Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2022/HS-ST ngày 29-12-2022 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã tuyên bố bị cáo Vi Xuân T phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; áp dụng điểm c khoản 2 Điều 260; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo 05 (năm)năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam 05-9-2022.
Công nhận sự thỏa thuận của bị cáo Vi Xuân T với bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại; cụ thể: Bị cáo Vi Xuân T có trách nhiệm bồi thường các khoản thiệt hại về sức khỏe cho bị hại Lục Văn T với tổng số tiền là 41.000.000 đồng được khấu trừ đi số tiền 21.000.000 đồng đã bồi thường trước. Bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) cho bị hại Lục Văn T.
Bị cáo Vi Xuân T có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại về tính mạng, tài sản tổng cộng tất cả các khoản là 500.000.000 đồng được khấu trừ đi số tiền 20.000.000 đồng đã bồi thường trước. Bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền là 480.000.000 đồng. Khoản bồi thường nêu trên giao cho chị Lành Thị Đ là người nhận và có quyền yêu cầu thi hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo, xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, trong hạn luật định, ngày 10/01/2023 bị cáo Vi Xuân T có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo đã tác động nhờ mẹ bị cáo nộp giúp số tiền 50.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Lạng Sơn để khắc phục một phần hậu quả.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà Hoàng Thúy M trình bày: Bà là mẹ của bị cáo Vi Xuân T; bị cáo đã tác động nhờ bà nộp số tiền 50.000.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Lạng để khắc phục hậu quả cho bị hại Hoàng Văn K, bị cáo cũng nhất trí, bị hại Lục Văn T nhất trí với ý kiến của bà Hoàng Thúy M.
Bị hại anh Lục Văn T và chị Lành Thị Đ là người đại diện hợp pháp của bị hại Hoàng Văn K tại phiên tòa tiếp tục đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn: Đơn kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo với tội danh Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, áp dụng đầy đủ cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, đúng quy định pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị cáo đã xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ mới, làm căn cứ cho kháng cáo của mình, bị cáo đã nộp được số tiền 50.000.000 đồng để khắc phục hậu quả và nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm, theo các biên lai thu tiền của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Lạng Sơn; bị hại, gia đình bị hại tiếp tục đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Vi Xuân T. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo củabị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, sửa quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2022/HS-ST ngày 29-12-2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn về phần hình phạt tù đối với bị cáo; cụ thể xử bị cáo từ 04 năm 06 tháng đến 04 năm 09 tháng tù.
Bà Nguyễn Thanh H, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Lành Thị Đ nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn; tại phiên tòa, bị cáo cũng thiện chí bồi thường, gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại Hoàng Văn K số tiền 50.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C; tại phiên tòa bị hại Lục Văn T và đị diện bị hại Hoàng Văn K tiếp tục xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ mới, là căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất có thể.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vi Xuân T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản án sơ thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm c khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bản án sơ thẩm đã xem xét đến nhân thân của bị cáo, đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và yếu tố lỗi của bị cáo; áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 05 (năm) năm tù là phù hợp.
[3] Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình thêm được các Biên lai thu tiền của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn, thể hiện bị cáo đã tác động gia đình giúp bị cáo nộp số tiền 50.000.000 đồng để khắc phục hậu quả và nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Đồng thời bị hại anh Lục Văn T và người đại diện hợp pháp của bị hại anh Hoàng Văn K là chị Lành Thị Đ đều tiếp tục đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, cần áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Do có thêm tình tiết giảm nhẹ mới như đã phân tích ở phần trên, nên chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, mà yên tâm cải tạo tốt, sớm trở về hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Từ những phân tích trên, cần sửa Quyết định của Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.
[5] Về phần Bồi thường thiệt hại: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại không có kháng cáo nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, bị cáo đã nộp tiền tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn để bồi thường khắc phục một phần hậu quả nên cần xác nhận.
[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn và của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Lành Thị Đ, ý kiến nào phù hợp với nhận định thì được Hội đồng xét xử chấp nhận, ý kiến nào không phù hợp thì không được chấp nhận.
[7] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[8] Các phần Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vi Xuân T. Sửa về phần hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2022/HS- ST ngày 29-12-2022 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo Vi Xuân T, cụ thể:
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Vi Xuân T;
Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm h khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Vi Xuân T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam 05/9/2022.
2.Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Xác nhận bị cáo Vi Xuân T đã nộp được số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu) để khắc phục hậu quả cho bị hại Hoàng Văn K, theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0001894 ngày 22/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Bị cáo Vi Xuân T còn phải tiếp tục bồi thường cho bị hại Hoàng Văn K số tiền 430.000.000 đồng (bốn trăm ba mươi triệu đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, nếu bên phải thi hành án chậm trả tiền thì còn phải chịu lãi xuất đối với số tiền chậm trả, lãi xuất phát sinh chậm trả do hai bên thỏa thuận nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Vi Xuân T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 06/2023/HS-PT về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 06/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về