Bản án 06/2021/HSST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

 BẢN ÁN 06/2021/HSST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số:116/2020/HSST ngày 30 tháng 12 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2020/QĐXXST – HS ngày 04 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo: Họ và tên: Đinh Văn V, sinh năm 2000, tại tỉnh Bình Phước.

Nơi cư trú: Thôn S, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Lái xe;trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn T và bà Đỗ Thị Thanh N; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2020 cho đến nay, (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đỗ Thị Thanh N, sinh năm 1971, (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Người làm chứng:

1. Phạm Duy Hoàng L, sinh năm 1994, (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã Bình L, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

2. Đặng Hồng P, sinh năm 1993, (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn A, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

3. Đỗ Thị Thanh L1, sinh năm 1995, (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

4. Mai Đức T2, sinh năm 1997, (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu T, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

5. Lưu Văn T3, sinh năm 1996, (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.

6. Lê Quốc P1, sinh năm 1979, (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.

7. Lê Thị Bảo H, sinh năm 2002, (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu Đ, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

8. Nguyễn Kim N, sinh năm 1997, (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.

9. Trần Trúc M, sinh năm 1989, (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu T, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 02/9/2020, sau khi Đinh Văn V ăn uống tại nhà Trần Hồng P cùng với Nguyễn Kim N, Đỗ Hồng A, Lưu Văn T3, Mai Đức T2, Phạm Duy Hoàng L, Lê Thị Bảo H, Trần Trúc M, Đỗ Thị Thanh L1 và Lê Quốc P1 xong thì mọi người rủ nhau đến quán karaoke “HV” thuộc thôn A, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước để hát. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, V chạy về nhà tắm rửa, rồi lấy gói nylon chứa 02 viên ma túy tổng hợp do một người bạn tên Đoan (không rõ nhân thân, lý lịch) ở thành phố Hồ Chí Minh cho V trước đó khoảng 15 ngày (vì Đinh Văn V là người nghiện ma tuý) bỏ vào túi quần bên trái của V đang mặc cất giấu, rồi đi xe taxi đến quán karaoke “HV” vào Phòng số 1. Trong lúc mọi người đang hát, V chọn một góc bàn nơi để nhiều lon bia, nước ngọt, dùng tay móc vào túi quần lấy gói ma túy, bẻ 02 viên ma túy ra thành nhiều mảnh, lấy 02 mảnh nhỏ bỏ vào trong ly, dùng bật lửa nghiền nát và lấy nước ngọt đổ vào ly có chứa ma túy để lên bàn karaoke ai uống thì uống. Số ma túy còn lại, V gói vào túi nylon để trên mặt bàn. Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 03/9/2020, Đội cảnh sát điều tra về tội phạm về ma túy Công an huyện B phối hợp với Công an xã Đ kiểm tra phát hiện, lập biên bản phạm tội quả tang hành vi tàng trữ chất ma tuý, niêm phong tang vật có chữ ký của Đinh Văn V để điều tra, xử lý theo pháp luật.

Tại Kết luận giám định số 205/2020/GĐ-MT ngày 10/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước, kết luận: Chất màu cam có trong túi nylon được niêm phong (có chữ ký của V) gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,4578 gam.

Vật chứng vụ án: Số ma túy loại MDMA, có khối lượng 0,4578 gam đã sử dụng hết cho việc giám định; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A10 màu xanh là tài sản của bà Đỗ Thị Thanh N (mẹ bị cáo) đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện B. Số tiền Việt Nam gồm: 01 tờ tiền Polyme mệnh giá 500.000 đồng và 18 tờ tiền Polyme mệnh giá 200.000 đồng, không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Đỗ Thị Thanh N.

Đối với cái ly mà bị cáo sử dụng đựng ma tuy, do các đối tượng sử dụng hết và lẫn vào các ly nước trong phòng karaok. Do đó, không xác định được ly nào nên cơ quan điều tra không thu giữ.

Tại Cáo trạng số 03/CT –VKS - BĐ ngày 28/12/2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Đinh Văn V về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Văn V phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy;

Về hình phạt, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đinh Văn V từ 12 đến 15 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo Đinh Văn V thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Viện kiểm sát nhân dân huyện B trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 03/9/2020, Đội cảnh sát điều tra về tội phạm về ma túy Công an huyện B phối hợp với Công an xã Đ tiến hành kiểm tra, phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đinh Văn V về hành vi tàng trữ trái phép 0,4578 gam ma túy, loại MDMA tại Phòng số 1 quán karaoke “HV” thuộc thôn 3, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

Từ phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Đinh Văn V đã phạm vào Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) …………………………………………… c) …. MDMA, có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Như vậy, nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, do lối sống buông thả, dẫn đến bị cáo nghiện ma túy. Mặc dù bị cáo nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng do nghiện nên vẫn cố ý phạm tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là con em lao động có hoàn cảnh gia đình khó khăn đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5, Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, do bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn chấp hành hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Cần trả lại: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A10 màu xanh là tài sản của bà Đỗ Thị Thanh N.

Đối với số tiền Việt Nam gồm: 01 tờ tiền polyme mệnh giá 500.000 đồng và 18 tờ tiền polyme mệnh giá 200.000 đồng, không liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Đỗ Thị Thanh N là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

- Đối với hành vi bị cáo cho các đối tượng Nguyễn Kim N, Đỗ Hồng A, Lưu Văn T3, Mai Đức T2, Phạm Duy Hoàng L, Lê Thị Bảo H, Trần Trúc M, Đỗ Thị Thanh L1, Trần Hồng P, Lê Quốc P1 sử dụng chất ma túy. Do bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo không chỉ huy, phân công điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng ma túy nên bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

- Đối với người tên Đoan cho V 02 viên ma túy Do không xác định được nhân thân, lý lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Đăg tách ra tiếp tục xác minh xử lý sau. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối người đàn ông điều khiển xe taxi chở V về nhà tắm lấy 02 viên ma túy nhưng không biết bị cáo tàng trữ ma túy nên không có căn cứ xử lý. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với Nguyễn Kim N, Đỗ Hồng A, Lưu Văn T3, Mai Đức T2, Phạm Duy Hoàng L, Lê Thị Bảo H, Trần Trúc M, Đỗ Thị Thanh L1, Trần Hồng P, Lê Quốc P1 đến quán karaoke để hát cùng bị cáo, nhưng không biết, không giúp sức hay xúi giục Đinh Văn V tàng trữ ma túy, nên không có căn cứ xử lý. Ngày 30/11/2020, Công an huyện B ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mỗi người 750.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 167 ngày 12/11/2013 của Chính Phủ.

- Đối với anh Nguyễn Thành T là chủ quán karaoke “HV” và anh Trương Minh Quang là người trực tiếp quản lý bộ phận karaoke không biết Đinh Văn V mang ma túy xuống quán tàng trữ, sử dụng bị Công an huyện B bắt quả tang, nên không đề cập xử lý.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa về áp dụng pháp luật và hình phạt là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Đinh Văn V phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn V 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/9/2020.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên trả lại: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A10 màu xanh là tài sản của bà Đỗ Thị Thanh N.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0009826 ngày 16/12/2020 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đinh Văn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết tại địa phương, nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 06/2021/HSST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;