Bản án 06/2021/HSST ngày 06/01/2021 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H 

BẢN ÁN 06/2021/HSST NGÀY 06/01/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 05, 06/01/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 382/2020/TL.HSST ngày 09/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 398/2020/QĐXXST-HS ngày 19/10/2020 đối với các bị cáo:

1, Quách Ngọc S, sinh ngày 28/12/1994 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Quách Ngọc D và bà Nguyễn Thị H; Vợ tên là Dương Thị V, có 01 con sinh năm 2019; Danh chỉ bản số 000000517, lập ngày 22/6/2020 tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Có mặt.

2, Nguyễn Văn H, sinh ngày 15/10/1971 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn X, xã H, huyện S, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 08/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn S1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị C (đã chết); Vợ tên là Nguyễn Thị H2 (đã ly hôn); Danh chỉ bản số 000000508, lập ngày 22/6/2020 tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Tiền sự: Năm 1996, 1997 Công an quận TH, Công an quận K cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản; Tiền án: không; Nhân thân: Ngày 28/5/1998 Tòa án nhân dân quận TH, H xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” (trị giá tài sản trộm cắp 600.000 đồng), Ngày 25/7/2016 Tòa án nhân dân quận B, thành phố H xử phạt 8 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản trộm cắp 3.500.000 đồng); Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Có mặt.

3, Nguyễn Văn H3, sinh ngày 12/01/1991 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn Th và bà Nguyễn Thị H4; Danh chỉ bản số 000000515, lập ngày 22/6/2020 tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H;

Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 18/9/2018, Tòa án nhân dân quận K, thành phố H xử phạt 25 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến ngày 11/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

4, Trần Thị V (tên gọi khác Trần Thị H5), sinh ngày 29/6/1981 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn P, xã T, huyện S, thành phố H; Giới tính: nữ; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Trần Văn H (đã chết) và bà Đồng Thị C; Chồng tên Đồng Văn L, có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2005; Danh chỉ bản số 000000506, lập ngày 18/6/2020 tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 25/4/2015, Tòa án nhân dân huyện S, thành phố H xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Đánh bạc”; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến ngày 11/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

5, Đồng Thị T, sinh ngày 17/8/1962 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H; Giới tính: nữ; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Đồng Văn Th2 (đã chết) và bà Trần Thị L2; Chồng tên là Lê Đăng Q (đã chết), có 02 con, lớn sinh năm 1983, nhỏ sinh năm 1988; Danh chỉ bản số 000000507, lập ngày 18/6/2020 tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 12/5/2009 Tòa án nhân dân huyện S, thành phố H xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”; Ngày 26/11/2010 Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh G xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Đánh bạc”; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Có mặt.

6, Nguyễn Văn Ph, sinh ngày 08/8/1971 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn K, xã T, huyện S, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 07/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn B và bà Hoàng Thị Ng; Vợ tên là Lương Thị G, có 03 con, lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 2012; Danh chỉ bản số 000000516, lập ngày 22/6/2020 tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H;

Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 06/3/2012 Tòa án nhân dân huyện S, thành phố H xử phạt 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Đánh bạc”; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến ngày 11/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

7, Quách Ngọc D, sinh ngày 21/8/1969 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Quách Văn V (đã chết) và bà Chu Thị B (đã chết); Vợ tên là Nguyễn Thị H7, có 02 con, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1994; Danh chỉ bản số 000000240, lập ngày 20/8/2020 tại Phòng cảnh sát hình sự Công an thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 28/12/2012, Tòa án nhân dân huyện S, thành phố H xử phạt 36 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; Bị cáo đầu thú và được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 11/8/2020; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

8, Đào Thành L, sinh ngày 11/3/1998 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã T, huyện S, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Đào Văn H8 và bà Nguyễn Thị L; Vợ tên là Nguyễn Thị L2, có 01 con sinh năm 2019; Danh chỉ bản số 000000190, lập ngày 07/7/2020 tại Phòng cảnh sát hình sự Công an thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến ngày 23/6/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

9, Nguyễn Hữu TA, sinh ngày 03/7/1997 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã T, huyện S, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Hữu T và bà Đồng Thị Ng; Danh chỉ bản số 000000184, lập ngày 07/7/2020 tại Phòng cảnh sát hình sự Công an thành phố H;

Tiền án, tiền sự: không; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến ngày 23/6/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

10, Đỗ Thị Tr, sinh ngày 20/9/1984 tại tỉnh G; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn TC, xã S, huyện Y, tỉnh G; Giới tính: nữ; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 06/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Đỗ Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ch; Chồng tên là Nguyễn Văn C, có 01 con sinh năm 2006; Danh chỉ bản số 000000186, lập ngày 07/7/2020 tại Phòng cảnh sát hình sự Công an thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến ngày 23/6/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

11, Trương ĐL, sinh ngày 01/01/1983 tại tỉnh G; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn A, xã Đ, huyện H, tỉnh G; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Trương Đức Q và bà Nguyễn Thị S; Vợ tên là Bùi Thị Kh; có 03 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2014; Danh chỉ bản số 000000189, lập ngày 07/7/2020 tại Phòng cảnh sát hình sự Công an thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến ngày 23/6/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

12, Đồng Thị TR2, sinh ngày 04/6/1986 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H; Giới tính: nữ; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Đồng Văn M và bà Cao Thị D; Chồng tên là Nguyễn Thanh T, có 01 con sinh năm 2007; Danh chỉ bản số 000000188, lập ngày 07/7/2020 tại Phòng cảnh sát hình sự Công an thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến ngày 23/6/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

13, Quách TG, sinh ngày 22/01/1992 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Quách Ngọc D và bà Nguyễn Thị H; Vợ tên là Nguyễn D, có 01 con sinh năm 2011; Danh chỉ bản số 000000187, lập ngày 07/7/2020 tại Phòng cảnh sát hình sự Công an thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến ngày 23/6/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

14, Nguyễn Thị C, sinh ngày 10/11/1975 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H; Chỗ ở: Số 3, ngõ 3, phố P, phường K, quận B, thành phố H; Giới tính: nữ; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 08/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn S (đã chết) và bà Nguyễn Thị M; Chồng tên là Trương Minh T, có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2004; Danh chỉ bản số 000000185, lập ngày 07/7/2020 tại Phòng cảnh sát hình sự Công an thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Bắt phạm tội quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến ngày 23/6/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H3, sinh năm 1991 tại phiên tòa: Luật sư Lê Thu H – Văn phòng luật sư H.L và cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố H; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản cáo trạng truy tố các bị cáo và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 03h00 ngày 14/6/2020, tổ công tác thuộc phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố H phát hiện, bắt quả tang Quách Ngọc S cùng đồng phạm đang có hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc dưới hình thức đánh xóc đĩa ăn tiền tại nhà của Nguyễn Văn H (Sinh năm 1971; Trú tại: Thôn X, xã H, huyện S, thành phố H). Các đối tượng bị bắt quả tang gồm: Quách Ngọc S (Sinh năm 1994; Trú tại: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H); Nguyễn Văn H (Sinh năm 1971; Trú tại: Thôn X, xã H, huyện S, thành phố H); Đồng Thị T (Sinh năm 1962; Trú tại: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H); Đồng Thị TR2 (Sinh năm 1986; Trú tại: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H); Đào Thành L (Sinh năm 1998; Trú tại: Thôn N, xã T, huyện S, thành phố H); Trương ĐL (Sinh năm 1983; Trú tại: Thôn A, xã Đ, huyện H, tỉnh G); Quách TG (Sinh năm 1992; Trú tại: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H); Nguyễn Hữu TA (Sinh năm 1997; Trú tại: Thôn B, xã T, huyện S, thành phố H); Nguyễn Văn Ph (Sinh năm 1971; Trú tại: Thôn K, xã T, huyện S, thành phố H); Đỗ Thị Tr (Sinh năm 1984; Trú tại: Thôn TC, xã S, huyện Y, tỉnh G); Trần Thị V (Sinh năm 1981; Trú tại: Thôn P, xã T, huyện S, thành phố H); Nguyễn Thị C (Sinh năm 1975; Trú tại: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H) và Nguyễn Văn H3 (Sinh năm 1991; Trú tại: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H). Vật chứng thu giữ tại hiện trường gồm: 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị được cắt từ đóm tre khô hình chữ nhật kích thước (1,5x02)cm, 01 tấm thảm trải nền nhà, 20 ghế nhựa, 01 con dao kích thước (15x05)cm, chuôi bằng gỗ, 01 bút dạ mực màu đen, 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 có vỏ màu xanh đen, số Seri 355757064942507, lắp sim số 0983.428.270 của Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) cùng số tiền 31.020.000 đồng, trong đó tiền thu tại chiếu bạc là 8.820.000 đồng và thu trên người các đối tượng đánh bạc là 22.200.000 đồng. Quá trình bắt giữ, đối tượng Quách Ngọc D (Sinh năm 1969; Trú tại: Phố N, xã T, huyện S, thành phố H) tham gia đánh bạc đã bỏ chạy và trốn thoát. Đến ngày 30/7/2020, D đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận về hành vi phạm tội.

Qua điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã làm rõ hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc của các đối tượng như sau:

1. Hành vi tổ chức đánh bạc của Quách Ngọc S và Nguyễn Văn H (sinh năm 1971):

Khong đầu tháng 6/2020, do không có nghề nghiệp ổn định nên Quách Ngọc S nảy sinh ý định thuê nhà dân tại địa bàn các xã thuộc huyện S, thành phố H với mục đích mở xới bạc dưới hình thức đánh xóc đĩa được thua bằng tiền để thu tiền phế. Khoảng 19h00 ngày 13/6/2020, Quách Ngọc S gọi điện thoại cho Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) để thuê nhà H làm địa điểm tổ chức đánh bạc. S thỏa thuận với H sẽ trả tiền thuê nhà là 500.000 đồng đến 700.000 đồng/01 ca đánh bạc thì H đồng ý. Khoảng 02h00 ngày 14/6/2020, S điện thoại rủ các con bạc đến nhà S tập trung. Sau đó, S chuẩn bị vật dụng đánh bạc gồm bát đĩa sứ, các thanh đóm tre khô, dao để cắt quân vị, bút dạ mực màu đen, ghế nhựa loại nhỏ, thảm trải nền và dẫn các con bạc đi đến nhà H (sinh năm 1971) để đánh bạc. Tại nhà H, S phân công nhiệm vụ cho H trông xe, đưa khách đến đánh bạc vào nhà H và cảnh giới, báo động khi cơ quan chức năng vây bắt. S quy định thu tiền phế vào cửa từ 200.000 đồng - 300.000 đồng/01 người/01 ca, mỗi ca từ 02h00 đến 05h00. S trực tiếp dùng dao cắt 04 quân vị từ thanh đóm tre khô rồi dùng bút dạ tô đen 01 mặt của các quân vị, trải thảm và xếp các ghế nhựa dọc theo chiều dài của thảm để các đối tượng ngồi đánh bạc. Khoảng 02h30 phút cùng ngày, S tổ chức cho các con bạc đánh bạc và thu tiền phế từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng/01 người/01 ca, tổng số tiền phế S thu được là 1.600.000 đồng. Phan ĐT là người xóc cái, S làm hồ lỳ kiểm tiền thắng - thua trả cho các con bạc, không chịu trách nhiệm về số tiền thắng - thua của ĐT mà chỉ nhằm mục đích duy trì xới bạc hoạt động. Phương thức đánh bạc dưới hình thức sóc đĩa, sát phạt nhau bằng tiền như sau: Dùng 04 quân vị (được cắt thành hình chữ nhật, kích thước (1,5x2)cm từ đóm có 01 mặt vàng màu tre khô và 01 mặt dùng bút dạ tô màu đen) cho vào 01 đĩa sứ lấy bát sứ úp vào nhau để xóc cái theo hình thức chẵn, lẻ cho các đối tượng đánh bạc đặt cửa. Sau khi xóc cái mở bát, nếu có 02 hoặc 04 quân cùng mặt là chẵn, nếu có 01 hoặc 03 quân cùng mặt là lẻ, các đối tượng đánh bạc thích cửa nào thì đặt tiền cửa đó. Nếu các con bạc đặt tiền vào cửa nào khi mở bát các quân vị lật đúng cửa đặt là chẵn hay lẻ thì được gấp đôi số tiền đã đặt, nếu không đúng thì thua số tiền đã đặt. Người cầm cái ngồi ở giữa và là người xóc cái để cho các con bạc đặt cửa, quy định bên tay phải của người xóc cái là chẵn, bên tay trái của người xóc cái là lẻ. Sau khi người cầm cái mở bát thì người làm hồ lỳ lấy tiền của người thua trả cho người thắng. Đến khoảng 03h00 ngày 14/6/2020, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị bắt quả tang cùng vật chứng gồm: 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị được cắt từ đóm tre khô hình chữ nhật kích thước 1,5x2cm, 01 tấm thảm trải nền nhà, 20 ghế nhựa, 01 con dao kích thước 15x5cm chuôi bằng gỗ, 01 bút dạ mực màu đen, 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105, vỏ màu xanh đen, số Seri 355757064942507, lắp sim số 0983.428.270 cùng số tiền 31.020.000 đồng trong đó tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 14.620.000 đồng gồm tiền thu tại chiếu bạc 8.820.000 đồng; tiền thu trên người các đối tượng đang đánh bạc gồm: Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991) 1.800.000 đồng; Trương ĐL 1.000.000 đồng; Nguyễn Hữu TA 700.000 đồng; Quách TG 700.000 đồng; Quách Ngọc S 1.600.000 đồng, số tiền còn lại của Quách Ngọc S là 16.400.000 đồng thì S khai là tiền sử dụng cá nhân không dùng vào mục đích tổ chức đánh bạc và đánh bạc, ngoài ra không còn tài liệu nào khác chứng minh số tiền đó S thu được từ việc tổ chức đánh bạc hay đánh bạc.

2. Hành vi đánh bạc của Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991), Trần Thị V, Đồng Thị T, Nguyễn Văn Ph, Quách Ngọc D, Đào Thành L, Nguyễn Hữu TA, Đỗ Thị Tr, Trương ĐL, Đồng Thị TR2, Quách TG và Nguyễn Thị C:

- Đối với Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991): Khoảng 02h40 phút ngày 14/6/2020, H3 mang theo 2.000.000 đồng đến xới bạc, nộp tiền phế cho S 200.000 đồng. H3 tham gia đánh bạc 02 ván, ván thứ nhất cửa chẵn số tiền 200.000 đồng bị thua, ván thứ hai cửa chẵn số tiền 200.000 đồng thắng thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ số tiền 1.800.000 đồng.

- Đối với Trần Thị V: Khoảng 02h30 phút ngày 14/6/2020, V mang theo 1.200.000 đồng đến xới bạc, nộp tiền phế cho S 200.000 đồng. V tham gia đánh bạc nhiều ván ở cửa chẵn và lẻ thì bị thua hết tiền và bị lực lượng Công an bắt quả tang.

- Đối với Đồng Thị T: Khoảng 02h40 phút ngày 14/6/2020, T mang theo 200.000 đồng đến xới bạc. T tham gia đánh bạc một ván vào cửa lẻ 200.000 đồng thì bị thua và bị lực lượng Công an bắt quả tang.

- Đối với Nguyễn Văn Ph: Khoảng 02h40 phút ngày 14/6/2020, Ph mang theo 2.000.000 đồng đến xới bạc. Ph tham gia đánh bạc 03 ván, ván thứ nhất đánh cửa chẵn 300.000 đồng bị thua, ván thứ hai đánh cửa chẵn 200.000 đồng bị thua, ván thứ ba đánh cửa lẻ 300.000 đồng bị thua thì bị lực lượng Công an bắt quả tang đã vứt hết số tiền còn lại xuống chiếu bạc.

- Đối với Quách Ngọc D: Khoảng 02h30 phút ngày 14/6/2020, D mang theo 500.000 đồng đến xới bạc. D tham gia đánh bạc nhiều ván tại cửa chẵn lẻ, ván cuối cùng D đánh cửa chẵn 300.000 đồng bị thua hết tiền thì lực lượng Công an vào bắt quả tang, D chạy thoát. Đến ngày 30/7/2020, D đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

- Đối với Đào Thành L: Khoảng 02h00 ngày 14/6/2020, L mang theo 4.000.000 đồng đến xới bạc, nộp tiền phế cho S 200.000 đồng. L tham gia đánh bạc ván thứ nhất cửa lẻ 1.000.000 đồng bị thua, ván thứ hai đánh cửa lẻ 1.000.000 đồng thắng, sau đó tham gia đánh nhiều ván cửa lẻ bị thua hết tiền thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

- Đối với Nguyễn Hữu TA: Khoảng 02h30 phút ngày 14/6/2020, TA mang theo 3.000.000 đồng đến xới bạc. TA tham gia đánh bạc ván thứ nhất 500.000 đồng cửa lẻ bị thua, ván thứ hai đánh 800.000 đồng cửa lẻ bị thua, ván thứ ba TA đánh số tiền 1.000.000 đồng cửa lẻ bị thua thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ 700.000 đồng.

- Đối với Đỗ Thị Tr: Khoảng 02h30 phút ngày 14/6/2020, Tr mang theo 2.000.000 đồng đến xới bạc, nộp tiền phế cho S 200.000 đồng. Tr tham gia đánh bạc ván thứ nhất đánh 100.000 đồng cửa lẻ bị thua, ván thứ hai đánh 100.000 đồng bên cửa lẻ bị thua thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, đã vứt hết số tiền còn lại xuống chiếu bạc.

- Đối với Trương ĐL: Khoảng 02h10 phút ngày 14/6/2020, ĐL mang theo 1.600.000 đồng đến xới bạc, nộp tiền phế cho S 300.000 đồng. ĐL tham gia đánh bạc nhiều ván, ván thứ nhất cửa chẵn 100.000 đồng bị thua, ván thứ hai cửa chẵn 100.000 đồng bị thua, tiếp tục đánh cửa lẻ 100.000 đồng bị thua thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ 1.000.000 đồng.

- Đối với Đồng Thị TR2: Khoảng 02h30 phút ngày 14/6/2020, TR2 mang theo 1.500.000 đồng đến xới bạc. TR2 tham gia đánh bạc nhiều ván, ván thứ nhất đánh cửa chẵn 500.000 đồng bị thua, ván thứ hai đánh cửa chẵn 500.000 đồng bị thua, ván cuối cùng TR2 đánh cửa lẻ 500.000 đồng bị thua hết tiền thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

- Đối với Quách TG: Khoảng 02h30 phút ngày 14/6/2020, TG mang theo 1.500.000 đồng đến xới bạc. TG tham gia đánh bạc ván thứ nhất cửa lẻ số tiền 300.000 đồng bị thua, ván thứ hai đánh cửa lẻ số tiền 500.000 đồng bị thua thì bị lực lượng Công an bắt quả tang thu giữ 700.000 đồng.

- Đối với Nguyễn Thị C: Khoảng 02h40 phút ngày 14/6/2020, C mang theo 1.100.000 đồng đến xới bạc, nộp tiền phế cho S 200.000 đồng. C tham gia đánh bạc nhiều ván ở hai cửa chẵn và lẻ, ván cuối cùng C đánh bên cửa lẻ số tiền 200.000 đồng thì bị thua hết tiền và bị lực lượng Công an bắt quả tang.

- Đối với Phan ĐT thực hiện hành vi sóc cái cho các con bạc đánh bạc, khi Công an vào bắt quả tang thì ĐT chạy trốn. Ngày 22/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã quyết định khởi tố bị can đối với Phan ĐT về tội “Đánh bạc”. Ngày 07/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã quyết định tách vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án và quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với bị can Phan ĐT, khi bắt được sẽ phục hồi điều tra xử lý sau.

Đối với các đối tượng Đoàn Th, Đỗ Tiến Th2 , Trần Văn M, Nguyễn Thị HP, Nguyễn V và Trần Thị DL là những người có mặt tại nhà Nguyễn Văn H khi lực lượng Công an bắt quả tang đánh bạc. Kết quả điều tra xác định các đối tượng trên chỉ đến xem đánh bạc, không thực hiện hành vi “Tổ chức đánh bạc” và không tham gia “đánh bạc” nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Tại bản cáo trạng số 369/CT-VKS-P2 ngày 02/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố:

+ Quách Ngọc S và Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a, b, d khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự;

+ Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991), Trần Thị V, Đồng Thị T, Nguyễn Văn Ph, Quách Ngọc D, Đào Thành L, Nguyễn Hữu TA, Đỗ Thị Tr, Trương ĐL, Đồng Thị TR2, Quách TG, Nguyễn Thị C về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay:

- Các bị cáo đều không có ý kiến về tội danh; điểm, khoản, điều luật Viện kiểm sát truy tố; Khai báo thành khẩn hành vi phạm tội như tại Cơ quan điều tra; Ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố Quách Ngọc S, Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a, b, d khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991), Trần Thị V, Đồng Thị T, Nguyễn Văn Ph, Quách Ngọc D, Đào Thành L, Nguyễn Hữu TA, Đỗ Thị Tr, Trương ĐL, Đồng Thị TR2, Quách TG, Nguyễn Thị C về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị:

+ Xử phạt: Quách Ngọc S từ 15 đến 18 tháng tù, hình phạt phụ: Tịch thu tài sản là tiền 14.600.000 đồng; Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) từ 15 đến 18 tháng tù; Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991) từ 12 đến 15 tháng tù; Trần Thị V (tức Trần Thị H5) từ 09 đến 12 tháng tù; Đồng Thị T từ 12 đến 15 tháng tù; Nguyễn Văn Ph từ 09 đến 12 tháng tù; Quách Ngọc D từ 09 đến 12 tháng tù; Đào Thành L, Nguyễn Hữu TA từ 09 đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Đỗ Thị Tr, Trương ĐL, Đồng Thị TR2, Quách TG, Nguyễn Thị C từ 06 đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy các vật chứng đã thu giữ; Tịch thu sung quỹ Nhà nước điện thoại di động và số tiền các bị cáo đã sử dụng vào việc tổ chức đánh bạc và đánh bạc là 14.620.000 đồng; Trả lại cho bị cáo Quách Ngọc S 16.400.000 đồng vì không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng đề nghị giữ lại để đảm bảo thi hành án.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H3, sinh năm 1991 có quan điểm: Không có ý kiến về tội danh, điểm, khoản, điều luật Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo H3; Bị cáo nhất thời phạm tội, do ship cơm đến, thấy đánh bạc thì vào đánh; Tại phiên tòa, khai báo thành khẩn và ăn năn hối cải; Gia đình có hoàn cảnh khó khăn: vợ mới thụ tinh nhân tạo, bố mất sớm, mẹ bị ung thu phổi giai đoạn 3, đều không có khả năng lao động; Bị cáo có đóng góp trong việc phòng chống dịch Covid 19 nên đề nghị giảm hình phạt thấp hơn mức hình phạt Viện kiểm sát đề xuất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên và của các Cơ quan tiến hành tố tụng.

Hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và các Cơ quan tiến hành tố tụng cơ bản đảm bảo đúng thủ tục tố tụng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh, hình phạt:

Căn cứ lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; Phù hợp với nhau; Phù hợp với vật chứng thu giữ khi Cơ quan điều tra bắt quả tang các đối tượng đánh bạc và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 13/6/2020, Quách Ngọc S liên hệ thuê nhà của Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) ở thôn X, xã H, huyện S, thành phố H với mục đích để tổ chức đánh bạc nhằm thu lợi bất chính và thỏa thuận với H giá thuê nhà từ 500.000 đồng đến 700.000 đồng/ca từ 2 đến 3 tiếng và H sẽ làm nhiệm vụ đưa các đối tượng vào nhà, trông xe, cảnh giới cho xới bạc. Ngày 14/6/2020, S chuẩn bị dụng cụ đánh bạc gồm bát, đĩa sứ, các thanh đóm tre khô, dao cắt quân vị, bút dạ mực mầu đen, ghế nhựa thảm và tổ chức cho Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991), Trần Thị V (tức Trần Thị H5), Đồng Thị T, Nguyễn Văn Ph, Quách Ngọc D, Đào Thành L, Nguyễn Hữu TA, Đỗ Thị Tr, Trương ĐL, Đồng Thị TR2, Quách TG, Nguyễn Thị C đánh bạc ăn tiền dưới hình thức “Xóc đĩa”. Khi các bị cáo đang đánh bạc ăn tiền thì bị Công an thành phố H bắt quả tang thu tại chiếu bạc số tiền 8.820.000 đồng, thu của Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991) số tiền 1.800.000 đồng, thu của Trương ĐL số tiền 1.000.000 đồng, thu của Nguyễn Hữu TA số tiền 700.000 đồng, thu của Quách TG số tiền 700.000 đồng, thu của Quách Ngọc S số tiền 18.000.000 đồng. Tổng số tiền thu giữ là 31.020.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo khai mang theo số tiền đánh bạc như sau: Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991) mang theo 2.000.000 đồng; Trần Thị V mang theo 1.200.000 đồng; Đồng Thị T mang theo 200.000 đồng; Nguyễn Văn Ph mang theo 2.000.000 đồng; Quách Ngọc D mang theo 500.000 đồng; Đào Thành L mang theo 4.000.0000 đồng; Nguyễn Hữu TA mang theo 3.000.000 đồng; Đỗ Thị Tr mang theo 2.000.000 đồng; Trương ĐL mang theo 1.600.000 đồng; Đồng Thị TR2 mang theo 1.500.000 đồng; Quách TG mang theo 1.500.000 đồng; Nguyễn Thị C mang theo 1.100.000 đồng để đánh bạc. Tổng số tiền các bị cáo khai dùng để đánh bạc là 20.600.000 đồng. Quách Ngọc S khai trong số tiền bị thu giữ có 1.600.000 đồng là tiền S thu phế của các đối tượng đến đánh bạc, số tiền 16.400.000 đồng là tiền cá nhân, không liên quan đến hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và số tiền thu giữ thực tế trên chiếu bạc và trong người các bị cáo đủ cơ sở kết luận số tiền dùng để đánh bạc, tổ chức đánh bạc để quy kết trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo là: 14.620.000 đồng.

Với hành vi phạm tội nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố các bị cáo Quách Ngọc S, Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a, b, d khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; Các bị cáo Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991), Trần Thị V, Đồng Thị T, Nguyễn Văn Ph, Quách Ngọc D, Đào Thành L, Nguyễn Hữu TA, Đỗ Thị Tr, Trương ĐL, Đồng Thị TR2, Quách TG, Nguyễn Thị C về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nên cần thiết phải truy tố và xét xử các bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Khi lượng hình, xét thấy:

* Đối với các bị cáo phạm tội “Tổ chức đánh bạc”:

Quách Ngọc S, Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) là đồng phạm cùng thực hiện hành vi phạm tội, trong đó Quách Ngọc S có vai trò là người chủ mưu, tổ chức đánh bạc; Nguyễn Văn H có vai trò là người giúp sức, cho thuê nhà, trông xe, cảnh giới cho S tổ chức đánh bạc nên vai trò của S phải cao hơn vai trò của H, do vậy mức hình phạt đối với S phải cao hơn của H.

Nhân thân của Quách Ngọc S chưa có tiền án, tiền sự; Tại phiên tòa thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy bị cáo có vai trò là người chủ mưu, tổ chức nhưng đánh giá, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo tổ chức cho các bị cáo khác đánh bạc với tổng số tiền không lớn (14.620.000 đồng); Lần đầu phạm tội; Tại phiên tòa đã ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; Có nơi cư trú rõ ràng; Nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên không cần thiết phải tiếp tục cách ly mà cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội, ấn định thời gian thử thách, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ giáo dục, cải tạo và răn đe phòng ngừa chung. Mở lượng khoan hồng của pháp luật, cho bị cáo được hưởng án treo. Do vậy, trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác. Tuy nhiên, với vai trò của bị cáo trong vụ án, cần phạt bổ sung tịch thu tài sản là số tiền 16.400.000 đồng thu giữ của bị cáo.

Nhân thân của Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) có 02 tiền sự đã hết thời hiệu, 02 tiền án đã được xóa án tích; Tại phiên tòa thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội; Nhân thân; Vai trò; Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy tuy bị cáo có vai trò thấp hơn bị cáo S, nhưng nhân thân bị cáo đã có 02 tiền sự, 02 tiền án nhưng không chịu tu dưỡng mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và răn đe phòng ngừa chung. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên được giảm một phần hình phạt.

* Đối với các bị cáo phạm tội “Đánh bạc” :

Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991), Trần Thị V, Đồng Thị T, Nguyễn Văn Ph, Quách Ngọc D, Đào Thành L, Nguyễn Hữu TA, Đỗ Thị Tr, Trương ĐL, Đồng Thị TR2, Quách TG, Nguyễn Thị C là đồng phạm cùng thực hiện hành vi phạm tội, có vai trò như nhau, cùng thực hiện hành vi đánh bạc ăn tiền trái pháp luật.

- Đối với bị cáo Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991), Trần Thị V, Đồng Thị T:

Nhân thân của Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991) có 01 tiền án ngày 18/9/2018 Tòa án nhân dân quận K xử phạt 25 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này là Tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; Gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bản thân tham gia chống dịch Covid 19 tại địa phương (xác nhận của Ủy ban nhân dân xã G, huyện S, thành phố H). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Nhân thân của Trần Thị V có 01 tiền án ngày 25/4/2015 Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này là Tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Nhân thân của Đồng Thị T có 02 tiền án ngày 12/5/2009 Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, ngày 26/11/2010 Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh G xử phạt 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này là Tái phạm nguy hiểm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991), Trần Thị V, Đồng Thị T có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội ít nghiêm trọng; Số tiền tham gia đánh bạc không nhiều (H3 mang theo 2.000.000 đồng, V mang theo 1.200.000 đồng, T mang theo 200.000 đồng để đánh bạc). Tuy nhiên, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội lần này đều thuộc trường hợp Tái phạm, Tái phạm nguy hiểm nên cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên được giảm một phần hình phạt.

- Đối với bị cáo Nguyễn Văn Ph, Quách Ngọc D, Đào Thành L, Nguyễn Hữu TA, Đỗ Thị Tr, Trương ĐL, Đồng Thị TR2, Quách TG, Nguyễn Thị C:

Nhân thân Nguyễn Văn Ph có 01 tiền án năn 2012 đã được xóa án tích. Tại phiên tòa thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Nhân thân Quách Ngọc D có 01 tiền án năm 2012 đã được xóa án tích. Tại phiên tòa thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Sau khi phạm tội đã ra đầu thú, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với Đào Thành L, Nguyễn Hữu TA, Đỗ Thị Tr, Trương ĐL, Đồng Thị TR2, Quách TG, Nguyễn Thị C nhân thân đều chưa có tiền án, tiền sự. Các bị cáo phạm tội lần đầu và mức độ nguy hiểm cho xã hội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Tại phiên tòa thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo L, TA, Tr, ĐL, TR2, TG và C theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Ph, D, L, TA, Tr, ĐL, TR2, TG, C có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn; Số tiền tham gia đánh bạc không nhiều; Các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng; Nhân thân đến nay đều chưa có tiền án, tiền sự; Có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội mà cho được tự cải tạo, ấn định thời gian thử thách, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú cũng đủ để giáo dục, cải tạo và răn đe phòng ngừa chung. Đối với bị cáo Ph và D trước đây đã có tiền án, tuy đã được xóa án tích nhưng xác định nhân thân xấu hơn các bị cáo L, TA, Tr, ĐL, TR2, TG, C nên mức hình phạt và thời gian thử thách phải cao hơn các bị cáo khác. Mở lượng khoan hồng của pháp luật, cho các bị cáo Ph, D, L, TA, Tr, ĐL, TR2, TG, C được hưởng án treo.

[3] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước điện thoại thu giữ của bị cáo H (sinh năm 1971); Tịch thu tiêu hủy các vật chứng khác thu giữ trong quá trình điều tra vụ án; Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 14.620.000 đồng các bị cáo dùng để đánh bạc, tổ chức đánh bạc; Số tiền 16.400.000 của bị cáo Quách Ngọc S tuy không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[4] Đối với Phan ĐT: Quá trình điều tra xác định ĐT có liên quan đến hành vi sóc cái cho các con bạc, khi Công an vào bắt quả tang thì ĐT chạy trốn. Ngày 22/6/2020, Cơ quan điều tra đã quyết định khởi tố bị can đối với Phan ĐT về tội “Đánh bạc”. Ngày 07/9/2020, Cơ quan điều tra đã quyết định tách vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án và quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với bị can Phan ĐT, khi bắt được sẽ phục hồi điều tra xử lý sau là phù hợp. Đối với các đối tượng Đoàn Th, Đỗ Tiến Th2, Trần Văn M, Nguyễn Thị H, Nguyễn V và Trần Thị DL là những người có mặt tại nhà Nguyễn Văn H (sinh năm 1971), khi lực lượng Công an bắt quả tang đánh bạc. Kết quả điều tra xác định các đối tượng trên chỉ đến xem đánh bạc, không thực hiện hành vi “tổ chức đánh bạc” và không tham gia “đánh bạc” nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

[5] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

1. Tuyên bố:

QUYẾT ĐỊNH

Bị cáo Quách Ngọc S, Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Bị cáo Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991), Trần Thị V (tức Trần Thị H5), Đồng Thị T, Nguyễn Văn Ph, Quách Ngọc D, Nguyễn Hữu TA, Đỗ Thị Tr, Trương ĐL, Đồng Thị TR2, Quách TG, Nguyễn Thị C, Đào Thành L phạm tội “Đánh bạc”.

2. Áp dụng: điểm a, b, d khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Quách Ngọc S 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

nh phạt bổ sung: Tịch thu tài sản là số tiền 16.400.000 đồng (mười sáu triệu bốn trăm nghìn đồng).

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, thành phố H để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự Trả tự do ngay cho bị cáo Quách Ngọc S tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

3. Áp dụng: điểm a, b, d khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H (sinh năm 1971) 12 (mười hai) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/6/2020.

4. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1991) 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến 11/8/2020.

5. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị V (tức Trần Thị H5) 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến 11/8/2020.

6. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Đồng Thị T 06 (sáu) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/6/2020.

Trả tự do ngay cho bị cáo Đồng Thị T tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

7. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Ph 12 (mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, thành phố H để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

8. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Quách Ngọc D 12 (mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, thành phố H để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

9. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Đào Thành L 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, thành phố H để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

10. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu TA 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, thành phố H để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

11. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Thị Tr 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã S, huyện Y, tỉnh G để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

12. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Trương ĐL 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H, tỉnh G để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

13. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Đồng Thị TR2 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, thành phố H để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

14. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Quách TG 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, thành phố H để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

15. Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị C 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân phường K, quận B, thành phố H để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

16. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 có vỏ mầu xanh đen, số Serial 355757064942507, lắp 01 Sim. Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bát sứ; 01 (một) đĩa sứ; 04 (bốn) quân vị được cắt từ đóm tre khô, hình chữ nhật, kích thước (1,5x02)cm; 01 (một) tấm thảm trải nền; 20 (hai mươi) ghế nhựa;

01 (một) con dao kích thước (15x05)cm, chuôi bằng gỗ; 01 (một) bút dạ mầu đen.

Số vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Cục thi hành án dân sự thành phố H theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 15/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H và Cục thi hành án dân sự thành phố H.

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền 14.620.000 đồng (mười bốn triệu sáu trăm hai mươi nghìn đồng).

Số tiền 16.400.000 đồng (mười sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) của bị cáo Quách Ngọc S tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Số tiền trên hiện đang lưu giữ tại tài khoản của Cục thi hành án dân sự thành phố H tại Kho bạc Nhà nước HĐ theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 22/10/2020.

17. Án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án:

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) - án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, thời hạn kháng cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

698
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2021/HSST ngày 06/01/2021 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:06/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;