TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 09 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 268/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Phùng Văn T, Sinh năm: 1983; dân tộc: Kinh; nơi cư trú: Tổ M, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)
- Bị đơn: Chị Lý Thị Y, sinh năm: 1990; dân tộc: Tày; nơi cư trú: Tổ M, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang; vắng mặt (Lần hai, không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và quá trình Tòa án thụ lý giải quyết anh Phùng Văn T trình bày: Anh và chị Lý Thị Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện không bị ép buộc và có đăng ký kết hôn vào ngày 09/11/2016 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, chị Y không quan tâm và không có trách nhiệm đến gia đình, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung nên thường xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi nhau. Năm 2019 chị Y đã làm đơn xin ly hôn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang giải quyết cho vợ chồng được ly hôn, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang đã thụ lý vụ án, nhưng do anh muốn nứu kéo hạnh phúc gia đình để vợ chồng đoàn tụ cùng nuôi dạy con cái, anh đã khuyên bảo nên chị Y đã rút đơn ly hôn và Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, nhưng sau đó mâu thuẫn vợ chồng vẫn không cải thiện mà ngày càng trầm trọng hơn. Mặc dù đã được hai bên gia đình nhiều lần khuyên giải nhưng mâu thuẫn vẫn không thay đổi, vợ chồng sống ly thân từ tháng 9 năm 2018 cho đến nay không còn quan tâm gì đến nhau nữa, anh nhận thấy rằng tình cảm vợ chồng không còn nữa, có cố níu kéo cũng chỉ làm khổ nhau; vì vậy anh làm đơn này đề nghị Toà án nhân dân huyện Bắc Quang giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lý Thị Y và anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, cả hai không quan tâm chăm sóc đến nhau nên đề nghị Tòa án không hòa giải giữa anh và chị Y, anh đề nghị giải quyết cho anh được ly hôn chị Y.
Về nuôi con chung: Vợ chồng anh chị có một con chung, tên cháu là Phùng Đăng Q, sinh ngày 28/02/2017, hiện nay cháu đang ở cùng với anh T. Khi ly hôn anh T có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi và không yêu cầu chị Y phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, công nợ chung: Anh T xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, công nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn chị Lý Thị Y vắng mặt, chị Y đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc, không nộp bản tự khai và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan trong vụ án cho Tòa án, Tòa án đã niêm yết văn bản tố tụng tại chính quyền địa phương nơi chị Y cư trú, Tòa án đã có biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân giữa anh T và chị Y cũng như việc chị Y cố tình che giấu địa chỉ tại chính quyền địa phương nơi chị Y và anh T cư trú và Tòa án cũng đã gửi văn bản tố tụng cho người thân của chị Y, người thân của chị Y đã nhận văn bản tố tụng của Tòa án và đã thông báo cho chị Y được biết việc anh T yêu cầu ly hôn chị Y, ông Phùng Văn T1 là bố chồng chị Y sống chung nhà với chị Y cho biết, chị Y thi thoảng về nhà rồi lại đi, ông T1 đã liên lạc với chị Y nhưng chị Y vẫn che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện. Do vậy căn cứ điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang vẫn tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang:
+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng thời hạn, nội dung, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của bị đơn về việc có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án quy định tại Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phùng Văn T đối với chị Lý Thị Y về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
Về con chung: Giao cháu Phùng Đăng Q, sinh ngày 28/02/2017 cho anh Phùng Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi. Chị Lý Thị Y không phải cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.
Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.
Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Anh Phùng Văn T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên toà, Tòa án nhận định:
[1] Về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án do anh Phùng Văn T có đơn yêu cầu ly hôn, căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Thẩm quyền theo cấp xét xử thì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chị Lý Thị Y có nơi cư trú là tổ 14, thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thẩm quyền theo lãnh thổ là Tòa án nơi bị đơn cư trú nên Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang thụ lý là đúng thẩm quyền.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án người thân của chị Y nhận văn bản tố tụng của Tòa án và đều thông báo cho chị Y, chị Y cũng nhận được văn bản tố tụng của Tòa án nhưng chị Y vẫn không có mặt và cũng không có ý kiến gì về việc anh T yêu cầu ly hôn. Xét thấy Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn chị Lý Thị Y vắng mặt tại phiên toà không có lý do, căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử vắng mặt chị Lý Thị Y. NguY đơn là anh Phùng Văn T vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh Phùng Văn T.
[3] Về hôn nhân: Anh Phùng Văn T và chị Lý Thị Y tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn ngày 09/11/2016 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang nên hôn nhân giữa anh T và chị Y là hợp pháp.
[4] Xét tình trạng hôn nhân: Quá trình chung sống anh T và chị Y phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, hai bên không còn có sự tôn trọng, chia sẻ, tạo điều kiện giúp đỡ nhau trong cuộc sống, trong công việc hàng ngày. Mâu thuẫn đã thường xuyên xảy ra căng thẳng mặc dù đã được gia đình can thiệp hòa giải nhưng vẫn không sửa chữa khắc phục, không cải thiện tốt quan hệ vợ chồng, khả năng đoàn tụ không còn, vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Tòa án tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho chị Y nhưng chị Y vẫn vắng mặt, không có ý kiến về yêu cầu ly hôn của anh T. Về nguyên nhân mâu thuẫn theo biên bản xác minh ngày 04 tháng 01 năm 2021 thể hiện chị Y đi đâu làm gì không báo cho chính quyền địa phương nơi chị Y cư trú. Hiện nay anh T và chị Y sống ly thân, mỗi người sống và làm việc một nơi, không quan tâm gì đến nhau, quá trình chung sống anh chị có 01 con chung, hiện cháu đang ở cùng anh T, anh chị không tạo lập được tài sản chung. Anh T xác định không còn tình cảm với chị Y, vợ chồng không hòa thuận, không thể tiếp tục chung sống với nhau, kiên quyết xin ly hôn. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, anh T không tạo điều kiện để tiếp tục chung sống. Cho thấy quan hệ hôn nhân giữa anh T và chị Y thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cả hai không quan tâm, chăm sóc đến nhau. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh T.
[5] Về nuôi con chung: Thời gian chung sống, vợ chồng anh chị có 01 con chung tên là Phùng Đăng Q, sinh ngày 28/02/2017. Xét thấy, anh T đang trực tiếp nuôi con chung, anh T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu chị Y phải cấp dưỡng nuôi con chung, quá trình giải quyết vụ án chị Y không có mặt nên không có ý kiến gì. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận giao con chung cho anh T được trực tiếp nuôi, anh T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Chị Lý Thị Y được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở chị Y thực hiện quyền này.
[6] Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết. Do vậy HĐXX không xem xét.
[7] Về án phí: Anh Phùng Văn T phải chịu án phí theo quy định của Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 điều 147, khoản 1, 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
Về hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Phùng Văn T. Anh Phùng Văn T được ly hôn chị Lý Thị Y.
Về con chung: Giao cháu Phùng Đăng Q, sinh ngày 28/02/2017 cho anh Phùng Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi. Chị Y không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Vì quyền lợi của con chung chị Y, anh T có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Về Án phí: Anh Phùng Văn T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang theo biên lai số 0001299, ngày 07/12/2020.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân dự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 09/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 06/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về