Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 05/07/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/07/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 28/2021/TLST-HNGĐ ngày 02/4/2021 về việc "Ly hôn và tranh chấp nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-DS, ngày 10/6/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/2021/QĐST-DS, ngày 28/6/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lâm Thị V, sinh năm 1994. Có mặt.

HKTT: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

Địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

- Bị đơn: Anh La Văn Đ, sinh năm 1989. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cũng như lời khai tại phiên toà nguyên đơn chị Lâm Thị V trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lâm Thị V được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn với anh La Văn Đ, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn ngày 23/12/2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống có hạnh phúc và sinh được 02 người con. Từ năm 2017, vợ chồng tôi xảy ra nhiều mâu thuẫn do anh Đ thường xuyên tụ tập bạn bè, thậm chí còn tụ tập đánh bạc tại nhà trong những ngày tết nguyễn đán và mỗi lần uống rượu say về đều chửi bới chị. Chị V cố gắng nhẫn nhịn vì các con và nhờ anh chị em họ hàng khuyên bảo nhưng anh Đ không thay đổi, cùng năm 2017 chị V đi làm thuê tại Trung Quốc thi thoảng mới về. Đến năm 2019, chị V về ở hẳn không đi làm nữa, sau đó anh Đ vẫn không thay đổi tính cách và tiếp tục chửi, đánh và đuổi chị V về ra khỏi nhà. Sau đó chị V về nhà ngoại ở và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không còn quan tâm gì nhau. Nay chị Lâm Thị V xác định tình cảm vợ chồng không còn và yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh La Văn Đ.

Về con chung: Chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ có 02 người con chung là La Thị Tuyết N, sinh ngày 27/3/2012 và La Mạnh Q, sinh ngày 02/01/2015. Cả hai cháu hiện đang ở với anh Đ tại thôn N, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Khi ly hôn, chị V yêu cầu anh Đ có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai cháu N và cháu Q đến tuổi trường thành và sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung là 750.000đ/tháng/cháu đến khi cháu N và cháu Q đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 12/4/2021 và lời khai tại phiên tòa hôm nay anh La Văn Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh La Văn Đ và chị Lâm Thị V được tự do tìm hiểu và tự nguyện đến với nhau không bị ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H vào ngày 23/12/2011. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng sống có hạnh phúc, có được 02 người con chung. Năm 2017, chị Lâm Thị V đi Trung Quốc làm thuê đến năm 2019 thì quay về. Trong suốt quá trình chung sống hai vợ chồng không có mâu thuẫn gì xảy ra. Tuy nhiên, chị Lâm Thị V sau khi đi Trung Quốc về đã thay đổi, không còn quan tâm đến cuộc sống của anh Đ và các con nữa, chị V tự bỏ đi về nhà ngoại tại thôn T, xã Q, huyện H, tỉnh Lạng Sơn ở và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không còn quan tâm gì nhau. Nay anh La Văn Đ xác định vợ chồng không còn tình cảm, chị Lâm Thị V khởi kiện yêu cầu xin ly hôn, anh La Văn Đ đồng ý thuận tình ly hôn với chị Lâm Thị V theo biên bản hòa giải ngày 20/4/2021.

Về con chung: Anh La Văn Đ và chị Lâm Thị V có 02 người con chung tên là La Thị Tuyết N, sinh ngày 27/03/2012 và La Mạnh Q, sinh ngày 02/01/2015. Từ năm 2017, hai cháu hiện ở với anh Đ tại thôn N, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Khi ly hôn, anh Đ yêu cầu được nuôi cả 02 con và yêu cầu chị Lâm Thị V phải cấp dưỡng nuôi con chung 1.000.000đ/tháng/cháu cho đến khi cháu N và cháu Q đủ 18 tuổi như đã thỏa thuận tại biên bản hòa giải ngày 20/4/2021 và yêu cầu chị Lâm Thị V cấp dưỡng nuôi con cho anh Đ trước 05 năm, từ năm thứ 06 trở đi cấp dưỡng theo tháng đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Anh La Văn Đ và chị Lâm Thị V đã tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Trong quá trình giải quyết Tòa án đã tiến hành hoà giải, tại phiên hòa giải ngày 20/4/2021 các đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án cụ thể là: Về quan hệ hôn nhân: Chị V và anh Đ thuận tình ly hôn; Về con chung: Anh Đ được quyền nuôi cháu La Thị Tuyết N, sinh ngày 27/03/2012 và La Mạnh Q, sinh ngày 02/01/2015, chị Lâm Thị V phải cấp dưỡng 1.000.000đ/tháng/cháu cho đến khi cháu N và cháu Q đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng theo tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 01/5/2021, không thỏa thuận về lãi suất. Đến ngày 22/4/2016 Tòa án nhận được đơn kháng cáo của anh La Văn Đ về việc thay đổi ý kiến về phương thức cấp dưỡng là yêu cầu chị Lâm Thị V thanh toán tiền cấp dưỡng nuôi con cho anh Đ trước 05 năm và từ năm thứ sáu trở đi là thanh toán theo tháng và cùng ngày Tòa án nhận đơn trình bày về việc thay đổi về mức cấp dưỡng nuôi con của chị Lâm Thị V là không đồng ý với mức cấp dưỡng 1.000.000đ/tháng/cháu mà chỉ chấp nhận mức cấp dưỡng từ 700.000đ đến 750.000đ/tháng/cháu đến khi các con đủ 18 tuổi.

Ý kiến trình bày của cháu La Thị Tuyết N, sinh ngày 27/03/2012 tại biên bản lấy lời khai cháu La Thị Tuyết N có nguyện vọng muốn được ở với bố là anh La Văn Đ.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa:

Tại hồ sơ vụ án Thẩm phán đã tiến hành đầy đủ các hoạt động tố tụng và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng về phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 55, 81, 82, 83, 84, 107, 116, 117 Luật Hôn nhân và Gia đình để giải quyết vụ án.

Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ theo biên bản thỏa thuận ngày 20/4/2021.

Về con chung: Giao cháu La Thị Tuyết N, sinh ngày 27/03/2012 và La Mạnh Q, sinh ngày 02/01/2015 cho anh La Văn Đ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Buộc chị Lâm Thị V có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung là 750.000đ/tháng/cháu đến khi cháu N và cháu Q đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng theo tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 06/7/2021. Chị Lâm Thị V có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản. Chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ có quyền yêu cầu thay đổi nuôi con chung và thay đổi tiền cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định.

Về tài sản chung và nợ chung: Không đề nghị xem xét vì các đương sự không yêu cầu.

Về án phí: Giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về thiếu sót, kiến nghị: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Lâm Thị V yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh La Văn Đ, yêu cầu giải quyết tranh chấp nuôi con chung. Do đó đây là tranh chấp hôn nhân gia đình nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Tòa án nhân dân huyện Bình Gia thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng quy định. Tòa án đã tiến hành thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, tiến hành mở phiên họp kiểm tra kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung. Các đương sự không có ý kiến khiếu nại gì về thủ tục tố tụng.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Năm 2012 chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên cuộc hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Cuộc sống chung của chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ hạnh phúc được một thời gian, sau đó đến năm 2017 bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do anh La Văn Đ không chịu tu chí làm ăn, thường xuyên tụ tập rượu chè, khi uống rượu say về lại chửi mắng vợ con. Chị Lâm Thị V và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh La Văn Đ không thay đổi, sau đó chị Lâm Thị V đi làm thuê tại Trung Quốc, đến năm 2019 chị Lâm Thị V về nhà vợ chồng lại tiếp tục xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, anh La Văn Đ đánh đuổi chị Lâm Thị V ra khỏi nhà nên chị Lâm Thị V về bên ngoại ở và sống ly thân từ năm 2019 đến nay không còn quan tâm gì nhau. Chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ xác định tình cảm vợ chồng không còn nên tại phiên hòa giải hai anh chị đã thuận tình ly hôn, tại phiên tòa hôm nay chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ vẫn giữ nguyên ý kiến là thuận tình ly hôn. Như vậy về quan hệ tình cảm vợ chồng giữa chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ là không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa Lâm Thị V và anh La Văn Đ theo biên bản hòa giải ngày 20 tháng 4 năm 2021.

[3] Về con chung: Chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ có 02 con người chung là La Thị Tuyết N, sinh ngày 27/03/2012 và La Mạnh Q, sinh ngày 02/01/2015. Do hai vợ chồng không thỏa thuận được về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử nhận thấy: Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn là quyền và nghĩa vụ của người cha, người mẹ. Tại phiên hòa ngày 20/4/2021 chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ đã thỏa thuận được với nhau về phần nuôi con là anh La Văn Đ được quyền nuôi cả 02 cháu, chị Lâm Thị V có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng/cháu đến khi hai cháu đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng theo tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 01/5/2021, không thỏa thuận về lãi suất chậm thanh toán. Tuy nhiên, sau hòa giải anh La Văn Đ có đơn thay đổi về phương thức cấp dưỡng là yêu cầu chị Lâm Thị V phải cấp dưỡng nuôi con một khoản tiền trước là 05 năm và từ năm thứ sáu trở đi cấp dưỡng theo từng tháng. Do yêu cầu của anh Lâm Văn Đ đòi thanh toán một khoản tiền cấp dưỡng nuôi con trước 05 năm, chị Lâm Thị V không đồng ý với yêu cầu của anh La Văn Đ nên chị Lâm Thị V cũng làm đơn thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con với mức từ 700.000đ đến 750.000đ/tháng/cháu, phương thức cấp dưỡng theo tháng. Xét về điều kiện, anh La Văn Đ hiện tại có nhà ở và có đất đai canh tác để đảm bảo thu nhập nuôi các con sau này, theo nguyện vọng anh La Văn Đ là muốn được nuôi cả hai cháu vì hiện nay cả hai cháu đều ở với anh La Văn Đ. Nguyện vọng của cháu La Thị Tuyết N cũng mong muốn được ở với anh La Văn Đ, hơn nữa anh La Văn Đ yêu cầu chị Lâm Thị V phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng/cháu, tuy nhiên chị Lâm Thị V không đồng ý với mức cấp dưỡng này. Mặt khác theo nguyện vọng của chị Lâm Thị V cũng mong muốn được nuôi con, tuy nhiên chị chưa có chỗ ở ổn định và kể từ ngày ly thân chị vẫn đang ở nhờ tại nhà bố mẹ đẻ và anh chị bên ngoại tại thôn T, xã Q, huyện H, tỉnh Lạng Sơn nên chị Lâm Thị V đồng ý cho anh La Văn Đ được quyền trực tiếp nuôi cả hai cháu đến khi đủ 18 tuổi và chị Lâm Thị V sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung. Từ những phân tích trên, nếu giao cháu La Thị Tuyết N và cháu La Mạnh Q cho chị Lâm Thị V chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sẽ không đảm bảo về mọi mặt cho các cháu phát triển, ăn học... Để đảm bảo đầy đủ về mọi mặt cho các cháu phát triển toàn diện nên cần phải giao cháu La Thị Tuyết N và cháu La Mạnh Q cho anh La Văn Đ chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến tuổi trưởng thành là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của cháu La Thị Tuyết N, đồng thời buộc chị Lâm Thị V phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con với mức 750.000đ/tháng/cháu là phù hợp với quy định tại Điều 107, 116 của Luật hôn nhân gia đình và điều kiện thực tế của chị Lâm Thị V nên yêu cầu của chị Lâm Thị V có căn cứ chấp nhận.

[4] Về yêu cầu thay đổi phương thức cấp dưỡng của anh La Văn Đ là yêu cầu chị Lâm Thị V phải thanh toán tiền cấp dưỡng nuôi con một khoản tiền trước là 05 năm theo mức cấp dưỡng đã thỏa thuận tại phiên hòa giải là 1.000.000đ/tháng/cháu với tổng số tiền là 120.000.000đ. Xét thấy, việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung là trách nhiệm của người cha, người mẹ. Để đảm bảo việc nuôi dưỡng, ăn học, sinh hoạt hàng ngày của cháu La Thị Tuyết N và cháu La Mạnh Q thì khoản tiền cấp dưỡng nuôi con mà chị Lâm Thị V phải được thanh toán từng tháng hoặc từng quý thì mới đảm bảo duy trì cuộc sống hàng ngày của các cháu. Tại phiên tòa chị Lâm Thị V không đồng ý với phương thức cấp dưỡng nuôi mà anh La Văn Đ yêu cầu. Do vậy, về yêu cầu về phương thức cấp dưỡng nuôi con của anh La Văn Đ là không phù hợp với quy định tại Điều 117 của Luật hôn nhân và gia đình và nhu cầu cuộc sống thực tế của các cháu nên không có căn cứ chấp nhận.

[5] Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Do các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Tại phiên tòa do chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ vẫn giữ nguyên thỏa thuận về phần quan hệ hôn nhân và phần án phí ly hôn sơ thẩm nên chị Lâm Thị V phải chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định để sung ngân sách Nhà nước.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, 55, 57, 81, 82, 83, 84, 107, 116, 117 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1, 6 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3, 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 357 của Bộ luật dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thỏa thuận của chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ thuận tình ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu La Thị Tuyết N, sinh ngày 27/03/2012 và La Mạnh Q, sinh ngày 02/01/2015 cho anh La Văn Đ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Chị Lâm Thị V có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung 750.000đ/tháng/cháu đến khi cháu La Thị Tuyết N và cháu La Mạnh Q đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 06/7/2021, phương thức cấp dưỡng theo tháng. Chị Lâm Thị V có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Chị Lâm Thị V và anh La Văn Đ có quyền yêu cầu thay đổi nuôi con chung và tiền cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định.

Trường hợp bên có nghĩa vụ chị Lâm Thị V chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Về tài sản chung: Không có.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Chị Lâm Thị V tự nguyện chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm là 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm và buộc chị Lâm Thị V phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con. Tổng số tiền chị Lâm Thị V phải chịu là 450.000đ (bốn trăm năm mươi nghìn đồng) để sung ngân sách nhà nước.

Xác nhận chị Lâm Thị V đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai số: AA/2015/0001323, ngày 02 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.

6. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 05/07/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Gia - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;