TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 06/2021/DS-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ TRANH CHẤP HỤI
Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 293/2020/TLST-DS ngày 26 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp hụi và tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 246/2020/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 163/2020/QĐST-DS ngày 28 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1972 Địa chỉ: Ấp B (P), xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H là bà Võ Thanh H, sinh năm 1974. Địa chỉ: Ấp B (P), xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre theo Văn bản ủy quyền ngày 12/10/2020 (Có mặt) 2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T (Hai B), sinh năm 1955 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T (T2), xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1952 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T (T2), xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre.
4. Người làm chứng cho nguyên đơn:
- Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1958 Địa chỉ: Ấp T (T2), xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre.
- Bà Võ Thị L, sinh năm 1964 Địa chỉ: Ấp B (P), xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cũng như tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H là bà Võ Thanh H trình bày:
Do có mối quan hệ hàng xóm láng giềng nên ông H có tham gia các dây hụi do bà Nguyễn Thị T (Hai B) làm chủ, ông H là hụi viên. Cụ thể:
- Hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 20/12/2016 (âm lịch), hụi có 27 phần, mỗi tháng khui 01 lần, ông H tham gia 04 dây, mỗi dây 01 phần, đã đóng hụi được 25 tháng từ ngày 20/12/2016 đến 20/11/2018 (nhuần 02 tháng 6/2017). Dây hụi này còn 01 tháng nữa sẽ mãn nhưng ngày 25/12/2018 bà T tuyên bố vỡ hụi nên ông H không đóng hụi nữa. Bà T có làm giấy chốt nợ hụi cho ông H dây hụi này với số tiền là 300.000 đồng/phần x 25 tháng x 04 phần = 30.000.000 đồng.
- Hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 15/01/2017 (âm lịch), hụi có 26 phần, mỗi tháng khui 01 lần, ông H tham gia 04 dây, mỗi dây 01 phần, đã đóng hụi được 24 tháng từ ngày 15/01/2017 đến 15/11/2018 (nhuần 02 tháng 6/2017). Dây hụi này còn 01 tháng nữa sẽ mãn nhưng do bà T tuyên bố vỡ hụi nên ông H không đóng hụi nữa. Bà T có làm giấy chốt nợ hụi cho ông H dây hụi này với số tiền là 300.000 đồng/phần x 24 tháng x 04 phần = 28.800.000 đồng.
Hai phần hụi nêu trên bà T đã chốt tiền hụi mãn cho ông H và còn nợ ông H số tiền tổng cộng là 58.800.000 đồng – 1.200.000 đồng tiền thảo (150.000 đồng/phần x 8 phần) = 57.600.000 đồng. Cũng trong thời gian trên ông H có cho bà T vay số tiền 20.000.000 đồng, không có thỏa thuận lãi suất, thời hạn vay, mục đích vay là để chi tiêu sinh hoạt gia đình.
Tổng cộng tiền hụi và tiền vay bà T còn nợ ông H số tiền là 77.600.000 đồng. Sau khi bà T tuyên bố vỡ hụi thì ngày 14/5/2019, ông V là chồng bà T có đứng ra chi trả cho ông H số tiền 16.000.000 đồng, tương đương với 20% số tiền nợ cùng với các hụi viên khác tại nhà bà T. Cùng ngày ông V có đến nhà trả tiếp cho ông H lần 2 với số tiền 20.000.000 đồng nên bà T chỉ còn nợ ông H số tiền hụi và vay là 41.600.000 đồng.
Ngoài ra ông H còn tham gia các phần hụi khác như sau:
- Hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 25/3/2017 (âm lịch), hụi có 26 phần, mỗi tháng khui 01 lần, ông H tham gia 03 dây, dây số 01 ông H tham gia 01 phần, dây số 02 và số 03 mỗi dây ông H tham gia 02 phần. Ông H đã đóng hụi được 22 tháng từ ngày 25/3/2017 đến 25/11/2018 (nhuần 02 tháng 6/2017). Các phần hụi nêu trên đều là hụi sống chưa mãn nhưng do bà T tuyên bố vỡ hụi nên ông H không đóng hụi nữa. Ông H đã đóng hụi vốn cho bà T mỗi phần là 215.000 đồng x 22 tháng x 5 phần = 23.650.000 đồng.
- Hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 25/5/2017 (âm lịch), hụi có 28 phần, mỗi tháng khui 01 lần, ông H tham gia 03 dây, dây số 01 ông H tham gia 01 phần, dây số 02 và số 03 mỗi dây ông H tham gia 02 phần. Ông H đã đóng hụi được 20 tháng từ ngày 25/5/2017 đến 25/11/2018 (nhuần 02 tháng 6/2017). Các phần hụi nêu trên đều là hụi sống chưa mãn nhưng do bà T tuyên bố vỡ hụi nên ông H không đóng hụi nữa. Ông H đã đóng hụi vốn cho bà T mỗi phần là 215.000 đồng x 20 tháng x 5 phần = 21.500.000 đồng.
- Hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 05/3/2018 (âm lịch), hụi có 26 phần, mỗi tháng khui 01 lần, ông H tham gia 10 dây, mỗi dây 01 phần, đã đóng hụi được 10 tháng từ ngày 05/3/2018 đến 05/12/2018. Các phần hụi nêu trên đều là hụi sống chưa mãn nhưng do bà T tuyên bố vỡ hụi nên ông H không đóng hụi nữa. Ông H đã đóng hụi vốn cho bà T mỗi phần là 215.000 đồng x 10 tháng x 10 phần = 21.500.000 đồng.
- Hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 10/4/2018 (âm lịch), hụi có 27 phần, mỗi tháng khui 01 lần, ông H tham gia 04 dây, dây số 01, 02, 03 mỗi dây ông H tham gia 01 phần, dây số 04 ông H tham gia 02 phần. Ông H đã đóng hụi được 09 tháng từ ngày 10/4/2018 đến 10/12/2018. Các phần hụi nêu trên đều là hụi sống chưa mãn nhưng do bà T tuyên bố vỡ hụi nên ông H không đóng hụi nữa. Ông H đã đóng hụi vốn cho bà T mỗi phần là 215.000 đồng x 09 tháng x 5 phần = 9.675.000 đồng.
Các phần hụi chưa mãn nêu trên bà T còn nợ ông H số tiền tổng cộng là 76.352.000 đồng. Tổng cộng bà T còn nợ ông H số tiền hụi mãn, chưa mãn và tiền vay là 41.600.000 đồng + 76.325.000 đồng = 117.925.000 đồng.
Tại tòa người đại diện theo ủy quyền của ông H trình bày ông V chi trả số tiền 16.000.000 đồng lần đầu tương đương 20% tiền nợ gồm tiền nợ hụi 57.600.000 đồng là 12.000.000 đồng và 20% tiền vay 20.000.000 đồng là 4.000.000 đồng nên số tiền nợ hụi 02 phần hụi mãn còn lại là 45.600.000 đồng và 16.000.000 đồng tiền vay. Cùng ngày ông V đến nhà trả cho ông H lần 2 với số tiền 20.000.000 đồng, ông H xác định số tiền trả lần hai 20.000.000 đồng là bà T trả tiền vay. Như vậy, bà T đã trả tiền vay cho ông H xong và còn thừa lại 4.000.000 đồng. Ông H đồng ý cần trừ số tiền thừa này vào tiền nợ hụi nên bà T chỉ còn nợ ông H số tiền hụi là 45.600.000 đồng - 4.000.000 đồng = 41.600.000 đồng. Do phần tiền vay bà T đã trả xong nên ông H xin rút yêu cầu khởi kiện đối với phần tiền vay này. Cũng tại tòa người đại diện theo ủy quyền của ông H xác định số tiền hụi vốn ông H đã đóng đối với các phần hụi chưa mãn mỗi phần là 200.000 đồng. Cụ thể hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 25/5/2017 ông H đã đóng số tiền hụi vốn là 200.000 đồng x 22 tháng x 5 phần = 22.000.000 đồng; Hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 25/5/2017 là 200.000 đồng x 20 tháng x 5 phần = 20.000.000 đồng; Hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 05/3/2018 là 200.000 đồng x 20 tháng x 10 phần = 20.000.000 đồng; Hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 10/4/2018 là 200.000 đồng x 09 tháng x 5 phần = 9.000.000 đồng. Tổng số tiền hụi vốn bà T còn nợ ông H các phần hụi nêu trên là 71.000.000 đồng. So với đơn khởi kiện thì số tiền ông H yêu cầu ít hơn là 76.325.000 đồng – 71.000.000 đồng = 5.325.000 đồng. Do đó, ông H xin rút yêu cầu khởi kiện đối với phần tiền nợ hụi 5.325.000 đồng.
Tổng cộng bà T còn nợ ông H số tiền nợ hụi 112.600.000 đồng.
Bà T làm chủ hụi trong thời gian dài, tổ chức nhiều dây hụi, nhiều lần khui hụi có mặt của ông V nên ông V có biết việc bà T làm chủ hụi. Khi bể hụi ông V có đứng ra cam kết hứa hẹn trả nợ và có trả một phần nợ thay cho bà T. Mục đích bà T làm chủ hụi là để thu tiền thảo phục vụ chi tiêu sinh hoạt trong gia đình, lo cho con cái học hành. Do đó, ông H yêu cầu bà T và ông V có trách nhiệm liên đới trả cho ông H số tiền nợ hụi nêu trên, không yêu cầu tính lãi suất.
Bị đơn bà Nguyễn Thị T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn V đã được tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời bà T, ông V đến tòa tham dự các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải, đối chất và dự phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án nhưng bà T, ông V vắng mặt không có lý do nên không có lời khai cũng như không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa người làm chứng cho nguyên đơn:
Bà Nguyễn Thị P trình bày: Bà có tham gia chơi hụi cùng với ông H 02 dây hụi mãn 300.000 đồng/tháng, khui ngày 20/12/2016 (âm lịch) và ngày 15/01/2017 (âm lịch), ngoài ra bà không có tham gia cùng ông H dây hụi nào khác. Ngày 14/5/2019, ông V có đứng ra chi trả cho các hụi viên một phần tiền bằng 20% số tiền nợ các dây hụi mãn và tiền mượn thì ông H có đến nhận được số tiền 16.000.000 đồng.
Bà Võ Thị L trình bày: Bà có tham gia chơi hụi cùng với ông H 02 dây hụi 300.000 đồng/tháng, khui ngày 05/3/2018 (âm lịch) và ngày 25/3/2017 (âm lịch), ngoài ra bà không có tham gia cùng ông H dây hụi nào khác. Bà xác định ông H có đến nhà bà T nhận số tiền 16.000.000 đồng từ ông V tương đương với 20% số tiền nợ các dây hụi mãn và tiền mượn mà bà T đã chốt với các hụi viên.
Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn bà T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông V không thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72, 73 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Người làm chứng thực hiện đúng quy định tại Điều 78 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H đối với bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn V về việc tranh chấp hụi. Buộc bà Nguyễn Thị T (Hai B), ông Nguyễn Văn V có trách nhiệm liên đới trả cho bà T số tiền nợ hụi tổng cộng là 112.600.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T (Hai B), ông Nguyễn Văn V có trách nhiệm liên đới trả số tiền nợ hụi là 5.325.000 đồng. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T (Hai B), ông Nguyễn Văn V có trách nhiệm liên đới trả số tiền vay là 20.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; ý kiến của đương sự và đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Văn H khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn V; Cùng địa chỉ: Ấp T (T2), xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre trả số tiền vay và tiền nợ hụi là vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại tòa không có lý do nên tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông V là phù hợp với quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung: Bà T, ông V vắng mặt tại tòa không có lý do thì xem như bà T, ông V đã tự tước bỏ quyền được chứng minh, trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của ông H và phải chịu hậu quả pháp lý của việc vắng mặt đó. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận lời khai và tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cũng như các chứng cứ đã thu thập được để làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án là phù hợp. Căn cứ vào các danh sách hụi viên; các xác nhận của người làm chứng và các bản án của Tòa án đã giải quyết việc tranh chấp hụi giữa các hụi viên khác với bà T, ông V đã có hiệu lực pháp luật do ông H cung cấp đã có đủ căn cứ xác định ông H có tham gia hụi do bà T tổ chức và làm chủ hụi.
[2.1] Ông H yêu cầu bà T và ông V có trách nhiệm liên đới trả số tiền hụi và tiền vay tổng cộng là 117.925.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Cụ thể: 02 dây hụi 300.000 đồng khui ngày 20/12/2016 (27 phần) và ngày 15/01/2017 (26 phần), mỗi dây ông đều tham gia 04 phần. Hai dây hụi nêu trên còn 01 tháng nữa sẽ mãn thì bà T tuyên bố vỡ hụi nên bà T đã viết giấy chốt nợ hụi mãn 02 dây hụi này cho ông với số tiền là 58.800.000 đồng và tiền vay 20.000.000 đồng. Tổng cộng là 78.800.000 đồng (chưa trừ tiền hụi thảo 1.200.000 đồng). Sau khi trừ tiền thảo còn nợ lại số tiền là 78.800.000 đồng – 1.200.000 đồng (tiền thảo 150.000 đồng/phần x 8 phần) = 57.600.000 đồng. Ngày 14/5/2019, ông V là chồng bà T có đứng ra trả cho ông H số tiền 16.000.000 đồng, tương đương với 20% số tiền nợ hụi và tiền vay cùng với các hụi viên khác tại nhà bà T. Chiều cùng ngày ông V có đến nhà ông H trả tiếp cho ông H lần 2 với số tiền 20.000.000 đồng nên bà T chỉ còn nợ ông H số tiền hụi và vay là 41.600.000 đồng. Xét chứng cứ là giấy chốt tiền nợ hụi và tiền vay do ông H cung cấp có nội dung chốt tiền hụi mãn hai dây hụi trên là 58.800.000 đồng và tiền thiếu là 20.000.000 đồng, tổng cộng là 78.800.000 đồng. Giấy chốt nợ có ghi “Cô 2 B” theo ông H là do bà T ghi nhưng tại biên bản hòa giải ngày 16/7/2019 (trong vụ án tranh chấp hụi trước đây giữa ông H với bà T đã được đình chỉ giải quyết vụ án do ông H rút đơn khởi kiện) thể hiện nội dung bà T không thừa nhận bảng kê khai nợ hụi do ông H nộp cho tòa là của bà T giao cho ông H nên không có đủ cơ sở để xác định đây là giấy chốt tiền nợ hụi và tiền vay giữa ông H với bà T. Tuy nhiên, căn cứ vào xác nhận của những người làm chứng là bà Trần Thị T, bà Võ Thị Mai T, bà Phan Thị Diễm C, bà Phan Thị R, bà Võ Kim C, bà Trần Thị N, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị B, bà Võ Thị L, bà Phạm Thị T, bà Cao Thị Thu H, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị N, bà Trần Thị L, bà Nguyễn Thị D1, bà Nguyễn Thị P đều xác định khi bà T tuyên bố vỡ hụi thì bà T có chốt số tiền nợ hụi và tiền vay cho các hụi viên trong đó có ông H và ông H có được ông V chi trả số tiền 16.000.000 đồng tương đương 20% số tiền nợ. Các xác nhận này cũng phù hợp với lời trình bày của ông H. Ông H cũng thừa nhận cùng ngày ông V có trả tiếp cho ông lần 2 với số tiền 20.000.000 đồng. Như vậy, có căn cứ xác định bà T sau khi bể hụi đã chốt tiền nợ và chỉ chi trả một phần tiền nợ cho ông H nên ông H yêu cầu bà T có trách nhiệm trả tiếp số tiền nợ còn lại 41.600.000 đồng là có cơ sở được chấp nhận. Tại tòa người đại diện theo ủy quyền của ông H xác định số tiền ông V trả 16.000.000 đồng gồm 20% số tiền hụi mãn 57.600.000 đồng là 12.000.000 đồng, nợ lại 45.600.000 đồng và 20% số tiền vay 20.000.000 đồng là 4.000.000 đồng, nợ lại 16.000.000 đồng. Ông V trả tiếp cho ông H lần 2 số tiền 20.000.000 đồng là trả tiền vay. Bà T đã trả tiền vay cho ông H xong và còn dư lại số tiền 4.000.000 đồng, ông H đồng ý cấn trừ số tiền dư này vào tiền nợ hụi còn lại 45.600.000 đồng – 4.000.000 đồng = 41.600.000 đồng. Do đó, có căn cứ xác định số tiền 41.600.000 đồng là tiền nợ hụi. Ông H xác định bà T đã trả xong phần tiền vay và xin rút yêu cầu khởi kiện đối với phần tiền vay 20.000.000 đồng. Đây là sự tự nguyện của công H phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.
[2.2] Đối với số tiền 04 phần hụi chưa mãn thì ông H cho rằng bà T chỉ chốt nợ và chi trả một phần tiền đối với các phần hụi đã mãn. Riêng các phần hụi chưa mãn bà T không có chốt nợ và chi trả tiền cho ông. Tại tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà H xác định số tiền hụi vốn các dây hụi chưa mãn là 200.000 đồng/phần. Cụ thể: Hụi 300.000 đồng ngày 25/3/2017 là 200.000 đồng/phần x 22 tháng x 05 phần = 22.000.000 đồng; Hụi 300.000 đồng ngày 25/5/2017 là 200.000 đồng/phần x 20 tháng x 05 phần = 20.000.000 đồng; Hụi 300.000 đồng ngày 05/3/2018 là 200.000 đồng/phần x 10 tháng x 10 phần = 20.000.000 đồng; Hụi 300.000 đồng ngày 10/4/2018 là 200.000 đồng/phần x 9 tháng x 05 phần = 9.000.000 đồng. Tổng cộng là 71.000.000 đồng. Xét thấy, căn cứ theo Bản án phúc thẩm số 157/2020/DS-ST ngày 01/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản và tranh chấp hụi giữa bà Nguyễn Thị B với bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn V thể hiện bà B có tham gia cùng ông H 04 dây hụi nêu trên đã được tòa án chấp nhận buộc bà T, ông V trả số tiền hụi vốn mỗi phần hụi là 200.000 đồng và bản án đã có hiệu lực pháp luật nên căn cứ theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là chứng cứ không cần phải chứng minh. Hơn nữa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cũng thống nhất số tiền hụi vốn mỗi phần hụi là 200.000 đồng. Do đó, có căn cứ xác định bà T còn nợ ông H số tiền hụi vốn các phần hụi nêu trên là 71.000.000 đồng và yêu cầu bà T có trách nhiệm trả cho ông số tiền này là có căn cứ được chấp nhận. Ông H xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền nợ hụi chưa mãn là 5.325.000 đồng. Đây là sự tự nguyện của công H phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.
[2.3] Về trách nhiệm liên đới: Xét thấy, ông V, bà T là vợ chồng hợp pháp sống chung nhà nên việc bà T tổ chức chơi hụi, làm chủ hụi trong một thời gian dài thì ông V phải biết. Hơn nữa, các xác nhận của những người làm chứng (nêu tại mục [2.1]) đều xác định khi bà T vỡ hụi, ông V đã đứng ra chi trả một phần tiền nợ hụi và nợ vay cho các chủ nợ. Như vậy, có cơ sở để xác định ông V biết việc bà T có làm chủ hụi, có nợ tiền hụi và tiền vay của ông H nên căn cứ vào Điều 27 của Luật hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử buộc ông V có trách nhiệm liên đới cùng bà T trả tiền nợ cho ông H là phù hợp.
Như phân tích nêu trên thì yêu cầu khởi kiện của ông H là có căn cứ được nên được chấp nhận. Buộc bà Tr, ông V có trách nhiệm liên đới trả cho ông H số tiền nợ hụi tổng cộng là 112.600.000 đồng (gồm tiền hụi mãn 41.600.000 đồng và 71.000.000 tiền hụi vốn các dây hụi chưa mãn). Ông H không yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền nêu trên nên ghi nhận. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông H về việc yêu cầu bà T, ông V trả số tiền nợ hụi chưa mãn 5.325.000 đồng. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông H về việc yêu cầu bà T, ông V trả số tiền nợ vay 20.000.000 đồng.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Do yêu cầu khởi kiện của ông H được chấp nhận nên ông V, bà T phải chịu án phí. Tuy nhiên, do ông V, bà T là người cao tuổi nên được miễn nộp toàn bộ tiền án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn H số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[4] Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, 217, 219, 271, 273, 278 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H đối với bà Nguyễn Thị T (Hai B), ông Nguyễn Văn V về việc tranh chấp hụi.
Buộc bà Nguyễn Thị T (Hai B), ông Nguyễn Văn V có trách nhiệm liên đới trả cho ông Nguyễn Văn H số tiền nợ hụi tổng cộng là 112.600.000đ (Một trăm mười hai triệu sáu trăm nghìn đồng). Trong đó tiền hụi mãn là 41.600.000đ (Bốn mươi mốt triệu sáu trăm nghìn đồng) và tiền hụi chưa mãn là 71.000.000đ (Bảy mươi mốt triệu đồng).
Ghi nhận việc ông H không yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền nêu trên.
Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T (Hai B), ông Nguyễn Văn V có trách nhiệm liên đới trả số tiền nợ hụi là 5.325.000đ (Năm triệu ba trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
3. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T (Hai B), ông Nguyễn Văn V có trách nhiệm liên đới trả số tiền vay là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông V, bà T là người cao tuổi nên được miễn nộp toàn bộ tiền án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn H số tiền tạm ứng án phí đã nộp tổng cộng là 2.948.000đ (Hai triệu chín trăm bốn mươi tám nghìn đồng) theo các biên lai thu số 0003973 và số 0003972 cùng ngày 22/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.
Quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được thông báo, niêm yết.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 06/2021/DS-ST ngày 18/01/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và tranh chấp hụi
Số hiệu: | 06/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về