Bản án 06/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 06/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai, vụ án hình sự thụ lý số 09/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2020/HSST-QĐ ngày 11 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đặng Minh T, sinh năm 1987 tại huyện A, tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: Khu phố 4, thị trấn T, huyện An, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn M, sinh năm 1950 (đã chết) và bà Đỗ Ngọc H, sinh năm 1947; tiền án: Ngày 13/6/2017 bị Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 19/2017/HSST, chấp hành xong ngày 03/02/2018; tiền sự: Ngày 14/5/2018 bị Công an thị trấn Thứ Ba, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 33/QĐ-XPVPHC về hành vi đánh nhau, chưa nộp phạt. Nhân thân: Ngày 22/8/2016 bị Công an thị trấn Thứ Ba, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 13/QĐ-XPVPHC và ngày 03/01/2017 bị Công an thị trấn Thứ Ba, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPVPHC về hành vi trộm cắp tài sản; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện An Biên từ ngày 20/12/2019 cho đến nay. Có mặt Người bị hại: Danh L, sinh năm 1999. Vắng có đơn xin vắng mặt Trú tại: Ấp B, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ngô Thị Bé S, sinh năm 1983. Vắng mặt lần hai không lý do Trú tại: Ấp T, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An.

- Danh Thái H, sinh năm 2003. Vắng mặt lần hai không lý do Trú tại: Ấp A, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ ngày 20/12/2019, sau khi uống rượu ở nhiều nơi tại khu vực ấp B, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang, Đặng Minh T đi bộ từ ấp B về nhà thuộc khu phố 4, thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. Khi đi đến nhà anh Danh L thuộc ấp B, T phát hiện 01 (Một) xe mô tô hiệu SWEAR màu xanh, biển kiểm soát 62F9-7712 đậu trước hàng ba. T quan sát xung quanh thấy không có người nên nảy sinh ý định lấy trộm xe. T đi đến vị trí đậu xe rồi dẫn xe đi về hướng thị trấn T. T dẫn xe đi được một đoạn thì thấy một tiệm sữa xe ven đường còn mở cửa, T đi vào nhờ tháo jack nối nguồn điện với ổ khóa để khởi động xe. Sau khi khởi động được xe, T tiếp tục điều khiển xe đi về nhà, khi đi đến khu vực tuyến tránh thuộc khu phố 4, thị trấn Thứ Ba, T bẻ biển số xe bỏ lại ven đường. Khi về đến nhà, T đậu xe vừa trộm được ở trước hàng ba nhà thì bị anh Danh Liền trong lúc đi tìm xe phát hiện trình báo Công an thị trấn Thứ Ba, T bị bắt giữ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐĐG ngày 31/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện An Biên kết luận: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu SWEAR, số loại LA110 màu xanh, số máy 1P53FMH-10405999, số khung FN110-10405999, biển kiểm soát 62F9-7712 giá 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng).

Vật chứng của vụ án gồm 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu SWEAR, số loại LA110 màu xanh, số máy 1P53FMH-10405999, số khung FN110-10405999, biển kiểm soát 62F9-7712. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện An Biên đã trả lại cho bị hại anh Danh L.

Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKS-HS ngày 13/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Đặng Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa hôm nay:

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Đặng Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Về hình phạt, đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên xử bị cáo Đặng Minh T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì nên miễm xét.

Về biện pháp tư pháp: Bị hại đã nhận lại xe bị mất trộm nên miễn xét.

Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên không có ý kiến.

Bị cáo Đặng Minh T nói lời sau cùng: Bị cáo tự nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm trở về lo cho gia đình và hứa không tái phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa đã làm rõ:

Khoảng 02 giờ ngày 20/12/2020, tại ấp B, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang, Đặng Minh T đã lén lút lấy trộm của anh Danh L 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu SWEAR, số loại LA110 màu xanh, số máy 1P53FMH-10405999, số khung FN110-10405999, biển kiểm soát 62F9-7712 trị giá theo Kết luận định giá là 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng). Tính đến thời điểm Đặng Minh T lấy trộm xe của anh Danh L, T chưa được xóa án tích về tội trộm cắp tài sản nên hành vi trộm xe của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên truy tố bị cáo Đặng Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi nhận thức được việc lợi dụng sự sơ hở của bị hại lén lút lấy trộm tài sản của họ là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì lười lao động chân chính, muốn có tiền nhanh chóng để chi xài cá nhân mà bị cáo đã bất chấp mọi hậu quả pháp lý. Hành vi của bị cáo không những đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến sở hữu tài sản của chủ sở hữu hợp pháp mà còn làm mất an ninh trật tự xã hội và gây hoang mang tư tưởng của người dân địa phương. Mặc khác bị cáo đã từng bị xét xử và xử phạt vi phạm hành chính về tội “Trộm cắp tài sản”, lẽ ra sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo phải biết ăn năn, hối cãi để chí thú lao động chân chính để giúp ích cho gia đình và xã hôi nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội liên quan đến quyền sở hữu tài sản nên cần xử bị cáo một mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả bị cáo đã gây ra để bị cáo có đủ thời gian cải tạo, giáo dục trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời cũng nhằm phòng ngừa chung cho những người khác có ý định tương tự như bị cáo.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Bị có không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra biết ăn năn hối cải. Do đó, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.

[4] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường nên miễm xét.

[6] Về biện pháp tư pháp: Bị hại đã nhận lại xe bị mất trộm nên miễn xét. [7] Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ. Tuy nhiên, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên được áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử ở mức thấp hơn viện kiểm sát đề nghị và trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa cũng đủ răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Đặng Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54 và Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đặng Minh T 05 (Năm) tháng 10 (Mười) ngày, thời hạn tù được tính kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/12/2019. Thời hạn tù bằng thời hạn tạm giam, trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

2. Về trách nhiệm dân sự và biện pháp tư pháp:

Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất trộm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường gì thêm nên mễm xét.

3. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đặng Minh T chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;