TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 06/2020/HSST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2020/TLST - HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/20/QĐXXST - HS ngày 03 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo.
Họ và tên: Lò Văn K, tên gọi khác: Không; sinh ngày 01/01/ 1973; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản H, xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt: Trình độ học vấn: Không biết chữ; Đảng phái đoàn thể: Không; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo; Không; Con ông: Lò Văn É và bà Lò Thị S (đã chết); Bị cáo có vợ là Tòng Thị L và 02 con, con lớn nhất 27 tuổi, con nhỏ nhất 25 tuổi.
Tiền án: Tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/7/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 31/7/2020 tại bản khu vực bản H, xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La Công an huyện Q, tỉnh Sơn La bắt quả tang Lò Văn K có hành vi tàng trữ trái phép 0,29 gam Herroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.
Vật chứng: Thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột, cục màu trắng nghi là ma túy.
Cùng ngày Công an huyện Q, tỉnh Sơn La phối hợp với các quan liên quan tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Lò Văn K, kết quả: Lò Văn K dương tính với chất ma túy.
Ngày 31/7/2020 Cơ quan điều tra Công an huyện Q, tỉnh Sơn La phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh, xác định khối lượng số chất cục, bột màu trắng nghi là ma túy thu giữ của Lò Văn K có tổng khối lượng là 0,29 gam trích toàn bộ làm mẫu gửi giám định ma túy và ký hiệu A1.
- Tại bản kết luận giám định số: 1272 ngày 04/8/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “Mẫu gửi giám định ký hiệu A1 là ma túy, loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,29 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,29 gam; loại Heroine”. Hoàn lại 0,20 trong mẫu gửi giám định ký hiệu A1.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 31/7/2020 Lò Văn K đi cắt cỏ voi về đến nhà thì có Tòng Văn T (Cháu ruột của vợ K) trú cùng bản đến chơi, K, T ngồi uống nước nói chuyện K hỏi T “Cháu còn tý nào không, cho chú một ít để sử dụng” T trả lời “Cháu có” rồi lấy từ túi quần bên phải ra một gói ma túy được gói bằng nilon màu trắng đưa cho K, K nhận gói ma túy và nói “Cháu ngồi uống nước, chú ra ngoài một lát” K cầm gói ma túy đi bộ ra hướng nhà văn hóa của bản để tìm địa điểm sử dụng ma túy. Trên đường đi thì bị tổ công tác Công an huyện Q, tỉnh Sơn La phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng nêu trên.
Tại bản cáo trạng số: 36/CT - VKS - QN ngày 02/11/2020 của Viện kiểm sát nhân huyện Q, tỉnh Sơn La đã truy tố Lò Văn K về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà Kiểm sát viên phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quyết định như cáo trạng truy tố đối với bị cáo Lò Văn K về hành vi; Tàng trữ trái phép chất ma tuý; Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn K phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt bị cáo Lò Văn K 15 (Mười lăm) đến 18 (Mười tám) tháng tù. Không phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.
Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS.
Tiêu hủy: - 01 phong bì thư của Công an huyện Q, còn nguyên niêm phong mặt trước của phong bì có ghi: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.
- 01 phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La còn nguyên niêm phong mặt trước của phong bì có ghi: 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở và 0,20 gam Heroine ký hiệu A1 hoàn lại sau giám định.
- 01 phong bì còn nguyên niêm phong mặt trước của phong bì có ghi: 01 que thử ma túy của Lò Văn K.
Bị cáo Lò Văn K không phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, tỉnh Sơn La, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa về thời gian, địa điểm và diễn biến sự việc phù hợp với bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến gì thay đổi, bổ sung và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng thu giữ. Kết luận giám định “Khối lượng chất ma túy, loại Heroine thu giữ là 0,29gam. Tổng trọng lượng chất ma túy là 0,29 gam. Bị cáo khai mục đích xin ma túy (heroine) với T là để sử dụng cho bản thân.
[3] Như vậy: Có đủ căn cứ kết luận: Ngày 31/7/2020 Công an huyện Q bắt quả tang Lò Văn K, sinh năm 1973 nơi đăng ký hộ khẩu thường trú; Bản H, xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chế độ quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, sức khỏe con người và sự phát triển bình thường của nòi giống dân tộc và làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc xin chất ma túy là Heroine với Tòng Văn Thoang để sử dụng là vi phạm pháp luật, nhưng vì nhu cầu sử dụng của bản thân, bị cáo cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy có khung hình phạt tù được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Sơn La đã truy tố đối với bị cáo Lò Văn K là đúng người, đúng tội, không oan cho bị cáo, có quy định khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm tù. Do vậy; Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, để bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, để răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý nói chung tại địa phương.
[5] Xét về nhân thân của bị cáo:
- Tiền án: Năm 1998 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội: Cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 70 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì tiền án trên của bị cáo Lò Văn K đương nhiên được xóa án tích. Lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân, trở thành công tốt cho gia đình và xã hội, do nghiện ma túy nên bị cáo lại xin ma túy của người khác để sử dụng cho bản thân.
- Tiền sự: Tháng 10/2006 đi cai nghiện ma túy tại Trung tâm giáo dục lao động tỉnh Sơn La theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh Sơn La.
[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo Lò Văn K có bố là Lò Văn É là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì là tình tiết giảm trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo Lò Văn K.
[7] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Qua xác minh, bị cáo hiện nay đang sống vào nghề trồng trọt, không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo K khai số Heroine (0,29 gam) bị Cơ quan điều tra thu giữ là bị cáo xin được với Tòng Văn T (là cháu ruột của vợ) khi T đến nhà bị cáo chơi vào ngày 31/7/2020, nhưng trong quá trình điều tra, xác minh hiện tại Tòng Văn T không có mặt tại địa phương. Nên Cơ quan điều tra Công an huyện Q sẽ tiếp tục tiến hành điều tra xác minh, nếu có căn cứ sẽ xử lý Tòng Văn T sau. Do đó buộc bị cáo Lò Văn K phải chịu trách nhiệm hình sự đối với toàn bộ số Heroine 0,29 gam thu giữ nêu trên.
[9] Vật chứng vụ án: - 01 phong bì thư của Công an huyện Q, còn nguyên niêm phong mặt trước của phong bì có ghi: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.
- 01 phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La còn nguyên niêm phong mặt trước của phong bì có ghi: 01 phong bì niêm phong gửi giám định đã bóc mở và 0,12 gam Heroine ký hiệu A1 hoàn lại sau giám định.
- 01 phong bì còn nguyên niêm phong mặt trước của phong bì có ghi: 01 que thử ma túy của Lò Văn K, theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo Lò Văn K không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. (Vì gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, cận nghèo có Giấy xác nhận của UBND xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La).
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1/ Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Lò Văn K phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
- Xử phạt bị cáo Lò Văn K 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/7/2020.
Không bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.
2/ Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên tiêu hủy: - 01 phong bì thư của Công an huyện Q, còn nguyên niêm phong mặt trước của phong bì có ghi: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.
- 01 phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La còn nguyên niêm phong mặt trước của phong bì có ghi: 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở và 0,20 gam Heroine ký hiệu A1 hoàn lại sau giám định.
- 01 phong bì thư của Công an huyện Q còn nguyên niêm phong mặt trước của phong bì có ghi: 01 que thử ma túy của Lò Văn K.
(Theo biên bản bàn giao vật chứng số 09/2021 ngày 05/10/2020 giữa Công an huyện Q, tỉnh Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Sơn La).
3/ Về án phí: Áp dụng điểm đ Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án - Bị cáo Lò Văn K được miễn 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bản án 06/2020/HSST ngày 24/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 06/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Nhai - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về