Bản án 06/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 06/2020/HS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2019/TLST-HS, ngày 31/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2020/QĐXXST-HS, ngày 06/01/2020 đối các bị cáo:

1. Hứa Minh T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 05/8/1982 tại thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khối T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Xuân T (đã chết) và bà Hoàng Thị H; có vợ là Hứa Hồng H và 01 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân:

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 003629 ngày 06/01/2004 của Công an thành phố Lạng Sơn xử phạt Hứa Minh T 50.000đồng về hành vi sử dụng vũ khí thô sơ, đã được xóa tiền sự;

- Bản án số 71/2007/HSST, ngày 01/8/2007 của TAND thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo Hứa Minh T 12 (mười hai) tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích;

- Bản án số 19/2009/HSST, ngày 05/10/2009 của TAND huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo Hứa Minh T 12 (mười hai) tháng tù giam về tội Cướp giật tài sản, đã được xóa án tích;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2019 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

2. Dương Văn K (tên gọi khác: Không), sinh ngày 27/9/1999 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Đình T (đã chết) và bà Hứa Thị P; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý hình sự, chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2019 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

3. Dương Văn M (tên gọi khác: Không), sinh ngày 22/7/1997 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn V và bà Triệu Thị K; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý hình sự, chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2019 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Mã Văn K, Sinh năm 1998,

Địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

Anh Hoàng Gia V, sinh năm 1998;

Địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

Anh Lý Văn T, sinh năm 1999

Địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1995

Địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

Anh Hà Văn M, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Tổ 4, khối 9, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

Anh Lương Văn H, sinh năm 1996;

Địa chỉ: Số 90, đường T, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Vy Hồng H, sinh năm 1982, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 11/9/2019, tổ công tác Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại khu vực đường DH 28, thuộc thôn Nà Nùng, xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn phát hiện Dương Văn K và Dương Văn M đang chuẩn bị điều khiển xe môtô, Biển kiểm soát 12D1-20938 có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, phát hiện trong tay trái của K có 01 túi nilon màu trắng, bên trong có 02 gói nilon màu đỏ, có chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy. K và M thừa nhận tại chỗ chất bột màu trắng bị thu giữ là chất ma túy hêrôin mua của Hứa Minh T, trú tại: Khối T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, mang về vừa sử dụng vừa bán kiếm lời. Vật chứng thu giữ: 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có chứa 02 túi nilon màu đỏ, bên trong các túi màu đỏ có chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy; 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, màu đen bạc đã qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô, nhãn hiệu YAMAHA, màu xanh đen, Biển kiểm soát 12D1- 20938, đã cũ. Trên cơ sở lời khai của K và M, cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét phòng trọ của Hứa Minh T, thu giữ: 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Hứa Minh T; 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE 5S màu ghi, đã qua sử dụng; 01 (một) gói nilon màu xanh bên trong chứa cục bột màu trắng; 01 (một) chiếc kéo màu đen; 02 (hai) mảnh nilon màu đỏ.

Tại cơ quan điều tra, các bị cáo khai nhận: Do bản thân đều nghiện ma túy nên các bị cáo đã bàn bạc góp tiền cùng nhau mua ma túy về để sử dụng đồng thời bán kiếm lời, số tiền bán ma túy sẽ chia nhau sau ngày rằm hàng tháng, cụ thể:

Ngày 02/9/2019, Dương Văn V rủ Dương Văn M ra thành phố mua ma túy về sử dụng và bán kiếm lời, M đồng ý, V hỏi “còn tiền không?”, M trả lời “còn 700.000đồng”. Sau đó M và V đi đến 01 cửa hàng điện thoại ở thành phố Lạng Sơn, V cắm điện thoại của V được 1.600.000đồng, M đưa cho V 700.000đồng. Tổng cộng được 2.300.000đồng, rồi M và V đến phòng trọ của Hứa Minh T ở đường Tô Thị, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, V trực tiếp đưa cho T 2.300.000đ, sau đó T đưa cho V 01 gói ma túy, rồi M chở V về đến thôn Ba Sơn, xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn lên một khu rừng gần đó để cùng nhau chia ma túy ra được khoảng 50 gói ma túy nhỏ, sau đó M và V đã sử dụng hết gần một nửa, một nửa còn lại bán cho những người nghiện.

Khoảng 07 giờ 00, ngày 04/9/2019 Dương Văn K gặp Dương Văn T tại quán nước ở đầu thôn Ba Sơn, xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. K rủ T góp tiền đi mua ma túy về sử dụng và bán kiếm lời, T đồng ý, K góp 1.300.000đồng, T góp 1.000.000đồng, tổng số tiền là 2.300.000đồng. Khoảng 09 sáng cùng ngày Dương Văn K và Dương Văn M gặp nhau tại quán nước nói trên, K rủ M ra thành phố Lạng Sơn mua ma túy, M đồng ý và nói với K là đặt hộ M một nửa chỉ ma túy với giá 2.300.000đồng. Sau đó K lấy điện thoại nhắn tin cho Hứa Minh T làm cho hai cái, mỗi cái nửa chỉ ma túy, mỗi gói với giá 2.300.000đồng. T đồng ý. Sau đó K chở M ra nơi trọ của Hứa Minh T, trên đường đi M đưa cho K 2.300.000đồng. Khi đến nơi, K trực tiếp đưa cho T 4.600.000đồng (trong đó 2.300.000đồng của K, 2.300.000đồng của M), T đưa cho K hai gói ma túy, sau đó K cùng M đi về thôn Ba Sơn, xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn thì K đưa một gói ma túy cho M, M cầm về cùng V chia ra được khoảng 40 – 50 gói nhỏ, còn K và T cũng chia được khoảng 40 – 50 gói ma túy. Số ma túy trên các bị can đã sử dụng hết một nửa, một nửa để bán cho những người nghiện khác.

Cũng với các hình thức như đã nêu trên trong các ngày 06/9 và 08/9/2019, Dương Văn K gọi điện thoại rủ M đi ra thành phố Lạng Sơn mua ma túy, tiền mua ma túy là do các bị can trích từ tiền bán ma túy của lần trước, M đồng ý. K lấy xe máy chở M ra phòng trọ của T, đến nơi K đưa cho T 4.600.000đồng, T nhận tiền và đưa cho K hai gói ma túy, sau đó K và M đi về thôn Ba Sơn, xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, K đưa cho M một gói, còn một gói K cùng T chia thành nhiều gói nhỏ để bán và sử dụng.

Đến sáng ngày 11/9/2019, Dương Văn V đưa cho K 2.300.000đồng nhờ K đi mua ma túy về cho V và dặn khi đi thì gọi M đi cùng, K đồng ý. Khoảng 10 giờ cùng ngày, K gọi điện cho M rủ đi mua ma túy, M đồng ý và hỏi V đã đưa tiền chưa, K trả lời đưa rồi. Khoảng 12 giờ cùng ngày K lấy xe môtô biển kiểm soát 12D1 – 20938 chở M đi từ Thôn Ba Sơn, xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn rồi vào một hiệu thuốc (không nhớ rõ địa chỉ) để mua xi lanh và nước cất, sau đó K và M ra phòng trọ của Hứa Minh T tại khối 8, đường Tô Thị, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn để mua ma túy. Tại phòng trọ K đưa cho T 4.600.000đồng (trong đó 2.300.000đồng của V, 2.300.000đồng của K, số tiền này có được là tiền lãi bán ma túy của những lần trước). Sau đó T đưa cho K hai gói ma túy, rồi K bảo M điều khiển xe để đi về, khi đi đến địa phận Nà Nùng, xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn K và M dừng xe đi xuống đường mở ma túy vừa mua được sẻ ra một ít để cả hai cùng sử dụng ma túy, sau đó gói lại. Sau khi sử dụng ma túy xong, M và K tiếp tục ra lấy xe để đi về thì bị Tổ công tác Công an huyện Cao Lộc bắt quả tang.

Bị cáo Hứa Minh T thừa nhận được bán ma túy cho Dương Văn K và Dương Văn M nhiều lần, số ma túy này là do T mua với một người phụ nữ không quen biết, khoảng 40 tuổi ở phía sau Bưu điện thành phố Lạng Sơn.

Bị cáo Dương Văn K khai được bán ma túy cho Mã Văn K, sinh năm 1998, Dương Cường P, sinh năm 1999, Hoàng Gia V, sinh năm 1998 cùng trú tại Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn nhiều lần, mỗi lần 01 gói với giá 100.000đồng. Khoảng 13 giờ, ngày 08/9/2019, Dương Văn M bán cho Lý Văn T, sinh năm 1999, 02 gói, mỗi gói 200.000đ, đến tối cùng ngày bán cho Lý Văn T 01 gói với giá 10.000đ. Ngày 09/9/2019 bán cho Hoàng Văn T, sinh năm 1995, 06 gói với giá 550.000đồng. T và T cùng trú tại thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Ngoài ra K và M còn bán cho nhiều người nghiện khác nhưng không biết rõ họ tên, địa chỉ và thời gian cụ thể.

Tại bản kết luận giám định số 323/KL-PC09, ngày 13/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

- “Mẫu 01” là chất ma túy Heroin, có khối lượng 3,457 gam (đã trừ bì);

- “Mẫu 02” là chất ma túy Heroin, có khối lượng 2,180 gam (đã trừ bì);

Tại bản Cáo trạng số 05/CT-VKS, ngày 30/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Dương Văn K, Dương Văn M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Hứa Minh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c, khoản 2, Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Dương Văn K, Dương Văn M, Hứa Minh T khai nhận cơ bản như cáo trạng đã nêu và khai bổ sung một số tình tiết mới. Các bị cáo Dương Văn K và Dương Văn M thừa nhận được đi cùng nhau mua 04 lần ma túy với bị cáo Hứa Minh T vào các ngày 04, 06, 08 và 11/9/2019, mỗi lần mua 4.600.000đồng. Sau khi mua mang về chia đôi: Phần của Dương Văn K và Dương Văn T chia ra 50 gói; phần của Dương Văn V và Dương Văn M chia thành 50 gói. Tổng 04 lần, Dương Văn K, Dương Văn M mua của Hứa Minh T 18.400.000đồng (mười tám triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền ma túy về chia được 200 gói ma túy, sử dụng hết 100 gói, còn 100 gói bán cho các đối tượng nghiện kiếm lời, mỗi gói bán giá 100.000đồng. Ngoài 04 lần cùng Dương Văn K đi mua ma túy với Hứa Minh T. Dương Văn M còn có 01 lần đi cùng với Dương Văn V mua 2.300.000đồng ma túy với Hứa Văn T được một nửa chỉ về chia thành 50 gói nhỏ, V và M sử dụng 25 gói, còn 25 gói bán cho các đối tượng nghiện kiếm lời. Bị cáo Dương Văn K thừa nhận được bán cho Hoàng Gia V nhiều lần, lần gần nhất là ngày 08 và 09/9/2019 bán 02 gói, giá 100.000đồng/gói; bán cho Dương Cường P nhiều lần, lần gần đây nhất là ngày 08/9/2019 01 lần giá 100.000đồng; bán cho Mã Văn K nhiều lần, lần gần nhất là 01 gói giá 100.000đồng; ngoài ra bị cáo Dương Văn K còn bán cho nhiều đối tượng nghiện khác không biết tên, địa chỉ. K thừa nhận số tiền Dương Văn K và Dương Văn T bán ma túy thu được là 7.500.000đồng, chia đôi mỗi người ½ tương đương số tiền 3.750.000đồng/người.

Bị cáo Dương Văn M thừa nhận được bán cho Lý Văn T nhiều lần, lần gần nhất bán cho Lý Văn T 03 gói, giá mỗi gói 100.000đồng; bán cho Hoàng Văn T 06 gói giá 550.000đồng. Dương Văn M thừa nhận số tiền Dương Văn M và Dương Văn V bán ma túy thu được là 10.000.000đồng, chia đôi mỗi người được hưởng ½ tương đương số tiền 5.000.000đồng/người.

Bị cáo Hứa Minh T khai được bán ma túy nhiều lần cho bị cáo Dương Văn K, Dương Văn M nhưng chỉ nhớ rõ bán 04 lần vào các ngày 04, 06, 08 và 11/9/2019 cho các bị cáo Dương Văn K, Dương Văn M. Bán riêng cho bị cáo Dương Văn M 01 lần vào ngày 02/9/2019. Tổng số tiền Hứa Minh T bán ma túy cho Dương Văn K, Dương Văn M là 20.700.000đồng. Để có nguồn ma túy bán, bị cáo Hứa Minh T mua với một người phụ nữ không quen biết, không rõ họ tên, địa chỉ, khoảng 40 tuổi ở phía sau Bưu điện thành phố Lạng Sơn.

Các bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tuy nhiên, do các bị cáo đều nghiện ma túy nên đã có hành vi sai trái với pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hứa Minh T, Dương Văn K, Dương Văn M, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hứa Minh T; áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 17 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Dương Văn K, Dương Văn M; xử phạt bị cáo Hứa Minh T 08 (tám) đến 09 (chín) năm tù giam; xử phạt bị cáo Dương Văn K và Dương Văn M từ 07 (bẩy) đến 08 (tám) năm tù giam.

Về hình phạt bổ sung đề nghị không áp dụng đối với các bị cáo Hứa Minh T, Dương Văn K, Dương Văn M do các bị cáo đều là người nghiện ma túy, không có việc làm ổn định.

Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo Dương Văn K, Dương Văn M, Hứa Minh T; 01 chiếc kéo, 02 túi nilon. Tịch thu sung công quỹ 03 điện thoại di động của 03 bị cáo; 01 xe môtô của Dương Văn K; trả lại cho bị cáo Hứa Minh T 01 chứng minh nhân dân; truy thu đối với bị cáo Dương Văn K 3.750.000đồng; truy thu đối với bị cáo Dương Văn M 5.000.000đồng; truy thu đối với bị cáo Hứa Minh T 20.700.000đồng.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận: Các bị cáo nhất trí với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận.

Khi nói lời nói sau cùng bị cáo Hứa Minh T xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội. Các bị cáo Dương Văn K, Dương Văn M không nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 11/9/2019; phù hợp với bản kết luận giám định số 323/KL-PC09, ngày 13/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Do đó có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hứa Minh T mua ma túy về bán từ 02 lần trở lên cho từ 02 người trở lên (bán cho bị cáo Dương Văn K và Dương Văn M từ 02 lần trở lên). Bị cáo Dương Văn K và Dương Văn M mua ma túy về bán nhiều lần cho các đối tượng nghiện là Mã Văn K, Hoàng Gia V, Lý Văn T, Hoàng Văn T, Dương Cường P.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố đối với bị cáo Hứa Minh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2, Điều 251; truy tố bị cáo Dương Văn K và Dương Văn M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của các bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo đều đủ tuổi trưởng thành, đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện ma túy các bị cáo đã phạm tội. Để có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử đánh giá về vai trò, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của từng bị cáo như sau:

[3] Trong vụ án này, bị cáo Hứa Minh T phạm tội độc lập. Bị cáo Dương Văn K và Dương Văn M đồng phạm với nhau. Cả hai bị cáo Dương Văn K và Dương Văn M có vai trò ngang nhau, cùng góp tiền, cùng đi mua ma túy và cùng bán kiếm lời.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Cả 03 bị cáo Hứa Minh T, Dương Văn K và Dương Văn M đều không có tình tiết tăng nặng về nhân thân.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cả 03 bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Do vậy, cả 03 bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Hứa Minh T có bố đẻ là ông Hứa Xuân T và mẹ đẻ là bà Hoàng Thị H được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên bị cáo Hứa Minh T được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Cả 03 bị cáo đều là người nghiện ma túy. Bị cáo Hứa Minh T đã bị Tòa án xét xử 02 lần (Năm 2007, bị TAND thành phố Lạng Sơn xử phạt 12 tháng tù giam về tội “trộm cắp tài sản”, năm 2009, bị TAND huyện Văn Quan xử phạt 12 tháng tù giam về tội “cướp giật tài sản”, cả 02 bản án đã được xóa án tích); năm 2004 bị Công an thành phố Lạng Sơn xử phạt hành chính 01 lần, đã được xóa tiền sự. Do vậy, xác định cả 03 bị cáo đều là người có nhân thân xấu.

[7] Trong vụ án này, bị cáo Hứa Minh T có hành vi mua ma túy về bán từ 02 lần trở lên và bán cho từ 02 người trở lên; bị cáo là người có nhân thân xấu, bị Tòa án xét xử nhiều lần, bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng bị cáo không rút kinh nghiệm, tu dưỡng trở thành người công dân có ích mà lại tiếp tục mua ma túy về bán cho các đối tượng nghiện làm lây lan tệ nạn nghiện ma túy nên xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài để sửa chữa lỗi lầm. Tuy nhiên, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên cũng cần xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.

[8] Đối với bị cáo Dương Văn K và Dương Văn M có hành vi mua ma túy nhiều lần về bán cho từ 02 người trở lên; các bị cáo là người nghiện ma túy, nên xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội. Tuy nhiên, tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội nên xét thấy cần giảm nhẹ phần nào hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5, Điều 251 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Nhưng xét thấy các bị cáo đều là người nghiện ma túy, không có tài sản đảm bảo thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10] Về vật chứng: Đối với toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo Dương Văn K, Dương Văn M và Hứa Minh T là vật Nhà nước cấm; 01 chiếc kéo và 02 mảnh nilon liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy; 03 chiếc điện thoại di động thu giữ của 03 bị cáo đều dùng liên lạc mua bán ma túy; 01 chiếc xe môtô thu giữ của bị cáo Dương Văn K là phương tiện sử dụng đi mua ma túy nên tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước.Truy thu số tiền 20.700.000đồng của bị cáo Hứa Minh T; truy thu số tiền 3.750.000đồng của bị cáo Dương Văn K, truy thu số tiền 5.000.000 đồng của bị cáo Dương Văn M do bán ma túy mà có; trả lại cho bị cáo Hứa Minh T 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Hứa Minh T vì là giấy tờ tùy thân của bị cáo.

[11] Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[12] Đối với đối tượng nữ bán ma túy cho bị cáo T, do không rõ họ tên, địa chỉ, cơ quan điều tra không làm rõ được nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét. Đối tượng Dương Văn T hiện nay không có mặt tại địa phương nên khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau. Bị can Dương Văn V hiện nay đang bị truy nã, khi nào bắt được sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

[13] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[14] Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các bị cáo cũng không khiếu nại về quá trình tiến hành tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hứa Minh T;

Căn cứ vào điểm b, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Dương Văn K và Dương Văn M;

Căn cứ vào điểm a, b, c khoản 1, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136; Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hứa Minh T, Dương Văn K, Dương Văn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt:

- Hình phạt chính:

Xử phạt bị cáo Hứa Minh T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/9/2019.

Xử phạt bị cáo Dương Văn K 08 (tám) năm tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/9/2019.

Xử phạt bị cáo Dương Văn M 08 (tám) năm tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/9/2019.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hứa Minh T, Dương Văn K, Dương Văn M.

3. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong dán kín ghi chữ “Quả tang Dương Văn K và Dương Văn M” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh Thái, trợ lý giám định và hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có 01 túi nilon màu trắng đựng 3,136 gam hêrôin và các vỏ bao gói (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết);

+ 01 (một) phong bì niêm phong dán kín ghi chữ “Khám xét Hứa Minh T” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh Thái, trợ lý giám định và hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có 01 túi nilon màu xanh đựng 2,096 gam hêrôin và các vỏ bao gói (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết);

+ 02 (hai) mảnh nilon màu đỏ thu giữ của bị cáo Hứa Minh T;

+ 01 (một) chiếc kéo màu đen, cũ qua sử dụng thu giữ của bị cáo Hứa Minh T;

- Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước các vật chứng sau:

+ 01 (một) xe máy hiệu YAMAHA màu xanh đen, biển kiểm soát 12D1- 20938, số khung RLCUE134HY044524, số máy E3S1E079375 của Dương Văn K;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 màu đen bạc số IMEI: 354433068662084 đã qua sử dụng của bị cáo Dương Văn K;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen số Serial: 354185107410525 đã qua sử dụng của bị cáo Hứa Minh T;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 5s màu gold cũ, số IMEI: 352023066165420 đã qua sử dụng của bị cáo Hứa Minh T;

- Trả lại cho bị cáo Hứa Minh Thế 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Hứa Minh T;

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/12/2019 giữa Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn).

- Truy thu số tiền 20.700.000 đồng (Hai mươi triệu bẩy trăm nghìn đồng) của bị cáo Hứa Minh T do phạm tội mà có;

- Truy thu số tiền 3.750.000đ (Ba triệu bẩy trăm năm mươi nghìn đồng) của bị cáo Dương Văn K do phạm tội mà có;

- Truy thu số tiền 5.000.000đồng (Năm triệu đồng) của bị cáo Dương Văn M do phạm tội mà có.

4. Về án phí: Buộc các bị cáo Hứa Minh T, Dương Văn K, Dương Văn M, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, anh Hà Văn M; vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Mã Văn K, anh Hoàng Gia V, anh Lý Văn T, anh Hoàng Văn T, anh Lương Văn H. Các bị cáo, anh Hà Văn M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;