Bản án 06/2020/HSST ngày 14/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 06/2020/HSST NGÀY 14/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 14 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

HOÀNG VĂN A - Tên gọi khác: Không; sinh ngày 29 tháng 12 năm 1981 tại huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn N, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Đức P (đã chết) và con bà Hoàng Thị B; vợ: Nguyễn Thị O; con: có 01 con sinh năm 2005; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo Hoàng Văn A bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 19/12/2019 đến ngày 28/12/2019 thì được hủy bỏ. Hiện tại bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị H – sinh năm 1981.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt tại phiên tòa có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 17 giờ 30 phút ngày 19/12/2019, tại đoạn đường A thuộc thôn B, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác đội điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện Chợ Đồn đang làm nhiệm vụ đã phát hiện và bắt quả tang Hoàng Văn A đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ bao gồm: Thu giữ bên trong găng tay bên trái đang đeo của Hoàng Văn A 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong túi nilon có chứa chất bột màu trắng, tiến hành thử nhanh các chất ma túy kết quả dương tính với chất ma túy Heroine, tổ công tác đã niêm phong gói chất bột màu trắng trên vào phong bì ký hiệu A1; tạm giữ tại túi quần đằng trước đang mặc bên trái của Hoàng Văn A 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu đen đã qua sử dụng, bên trong có lắp sim Viettel có seri ba số cuối 698 niêm phong vào trong phong bì ký hiệu A2; tạm giữ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại xe BLADE màu đỏ - đen, BKS 97B1 – 790.70.

Hi 09 giờ 40 phút ngày 20 tháng 12 năm 2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, công trình phụ cận đối với Hoàng Văn A ở thôn N, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Qua khám xét không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến ma túy.

Tại biên bản mở niêm phong và cân xác định khối lượng hồi 20 giờ 15 phút ngày 19 tháng 12 năm 2019 xác định: Phong bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong có 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng. Cân riêng số chất bột màu trắng có khối lượng 3,44g (Ba phẩy bốn bốn gam), niêm phong vào trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định. Còn vỏ phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu A1 và túi nilon ban đầu được niêm phong vào phong bì mới ký hiệu B2 quản lý theo quy định.

Tại biên bản mở niêm phong và kiểm tra đồ vật bị tạm giữ hồi 10 giờ 50 phút ngày 27 tháng 12 năm 2019 xác định: Bên trong phong bì A2 có 01 (một) điện thoại di động tạm giữ được của Hoàng Văn A, qua kiểm tra nhật ký điện thoại không thấy hiển thị các cuộc gọi đi, cuộc gọi đến, mục tin nhắn không thấy có tin nhắn đi và đến, sau kiểm tra đã cho điện thoại và vỏ phong bì niêm phong ban đầu cho A2 vào phong bì mới niêm phong ký hiệu A5.

Tại Bản kết luận giám định số: 09/KTHS-MT ngày 29 tháng 12 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu B1 gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 3,44gam (Ba phẩy bốn bốn gam)”.

Sau giám định, mẫu chất trong phong bì ký hiệu B1 còn lại 3,41g (Ba phẩy bốn mốt gam) cùng phong bì, bao gói cũ niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T09 hoàn trả lại cho Cơ quan trưng cầu.

Quá trình điều tra, truy tố Hoàng Văn A khai nhận: Vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 19 tháng 12 năm 2019 Hoàng Văn A một mình điều khiển xe mô tô màu đỏ đen BKS 97B1 – 790.70 nhãn hiệu HONDA loại xe BLADE từ nhà tại thôn N, xã Đ, huyện C, tỉnh Bắc Kạn đi ra khu vực ngã tư đèn xanh đèn đỏ thuộc thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn để tìm mua ma túy Heroine về sử dụng. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày A gặp một đàn ông lạ mặt không rõ tên, tuổi, địa chỉ tại ngã tư đèn xanh, đèn đỏ. A đã hỏi mua với người đàn ông này 01 (một) gói ma túy loại Heroine đựng trong túi nilon màu trắng với giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng), khi mua được ma túy A cho gói ma túy Heroine vào trong găng tay đang đeo bên tay trái của A rồi điều khiển xe đi về nhà, đi đến đoạn đường thuộc thôn B, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn thì bị Công an huyện C, tỉnh Bắc Kạn phát hiện bắt quả tang khi đang tàng trữ số ma túy trên.

Tại bản cáo trạng số: 04/CT- VKSCĐ ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn A về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)……………………….

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Ti phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Hoàng Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn A từ 30 đến 36 tháng tù, trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2019 đến ngày 28/12/2019.

Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Đề nghị không phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 46 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã niêm phong kín ký hiệu T09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, sau khi giám định hoàn trả lại cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn, trên mặt niêm phong của phong bì có 02 hình dấu tròn màu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn và 03 chữ ký không đọc được. Bên trong phong bì có chứa 3,41 gam heroine cùng phong bì, bao gói cũ; 01 phong bì đã được niêm phong kín ký hiệu B2, trên mặt niêm phong của phong bì có 03 hình dấu tròn màu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn, 01 dòng chữ “Ngọc Mạnh H”, 01 dòng chữ “Hoàng Văn A”, 01 dòng chữ “Đậu Xuân H”, 01 dòng chữ “Nguyễn Viết H”, 01 dòng chữ “Phùng Văn Q” và 05 chữ ký không đọc được.

- Tạm giữ để thi hành án cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động NOKIA đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Viettel số seri có ba số cuối là 698 đã được niêm phong dán kín ký hiệu A5, trên mặt niêm phong của phong bì có 02 hình dấu tròn màu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn, 01 dòng chữ “Ngọc Mạnh H”, 01 dòng chữ “Nguyễn Viết H”, 01 dòng chữ “Hoàng Văn A”, 01 dòng chữ “Văn Tiến B”, 01 dòng chữ “Đào Văn H” và 05 chữ ký không đọc được. Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Văn A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Đồn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hồi 17 giờ 30 phút ngày 19 tháng 12 năm 2019, tại đoạn đường A thuộc thôn B, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác đội điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện Chợ Đồn đang làm nhiệm vụ đã phát hiện và bắt quả tang bị cáo Hoàng Văn A đang có hành vi tàng trữ trái phép 3,44g (Ba phẩy bốn bốn gam) ma túy (Heroine). Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với kết luận giám định là chất ma tuý (Heroine) và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vì bị cáo nghiện chất ma túy để thoả mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn thực hiện. Hội đồng xét xử xét có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Xét tính chất, hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự ở địa phương. Cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Hi đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với bị cáo và đúng quy định của pháp luật.

Bị cáo Hoàng Văn A được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 BLHS - là người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào.

Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đi với người đàn ông (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) theo lời khai của bị cáo A là người đã bán ma túy cho bị cáo tại khu vực ngã tư đèn xanh, đèn đỏ thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Kết thúc điều tra bị cáo không cung cấp được tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở xem xét.

[3]. Xét về vật chứng:

- Đối với chiếc xe mô tô BKS: 97B1 – 790.70 bị cáo đã sử dụng làm phương tiện để đi mua ma túy, là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn Thị H, ngày 19/12/2019 bà H đã cho bị cáo A mượn xe, nhưng không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, ngày 20/12/2019 bà H có đơn xin lại chiếc xe để làm phương tiện đi lại phục vụ cuộc sống. Do vậy cơ quan điều tra đã trả lại cho bà H là đúng quy định của pháp luật.

- 01 phong bì đã niêm phong kín ký hiệu T09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, sau khi giám định hoàn trả lại cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn, trên mặt niêm phong của phong bì có 02 hình dấu tròn màu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn và 03 chữ ký không đọc được. Bên trong phong bì có chứa 3,41 gam heroine cùng phong bì, bao gói cũ; 01 phong bì đã được niêm phong kín ký hiệu B2, trên mặt niêm phong của phong bì có 03 hình dấu tròn màu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn, 01 dòng chữ “Ngọc Mạnh H”, 01 dòng chữ “Hoàng Văn A”, 01 dòng chữ “Đậu Xuân H”, 01 dòng chữ “Nguyễn Viết H”, 01 dòng chữ “Phùng Văn Q” và 05 chữ ký không đọc được - xác định là vật không có giá trị sử dụng và vật cấm lưu hành.

- 01 chiếc điện thoại di động NOKIA đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Viettel số seri có ba số cuối là 698 đã được niêm phong dán kín ký hiệu A5, trên mặt niêm phong của phong bì có 02 hình dấu tròn màu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn, 01 dòng chữ “Ngọc Mạnh H”, 01 dòng chữ “Nguyễn Viết H”, 01 dòng chữ “Hoàng Văn A”, 01 dòng chữ “Văn Tiến B”, 01 dòng chữ “Đào Văn H” và 05 chữ ký không đọc được - xác định chiếc điện thoại này là của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

[4]. Xét về án phí: Bị cáo Hoàng Văn A phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn A phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

[1]. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn A 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án (bị cáo được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2019 đến ngày 28/12/2019).

Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không phạt tiền đối với bị cáo.

[2]. Về vật chứng: Áp dụng Điều 46 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã niêm phong kín ký hiệu T09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, sau khi giám định hoàn trả lại cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn, trên mặt niêm phong của phong bì có 02 hình dấu tròn màu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn và 03 chữ ký không đọc được. Bên trong phong bì có chứa 3,41 gam heroine cùng phong bì, bao gói cũ; 01 phong bì đã được niêm phong kín ký hiệu B2, trên mặt niêm phong của phong bì có 03 hình dấu tròn màu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn, 01 dòng chữ “Ngọc Mạnh H”, 01 dòng chữ “Hoàng Văn A”, 01 dòng chữ “Đậu Xuân H”, 01 dòng chữ “Nguyễn Viết H”, 01 dòng chữ “Phùng Văn Q” và 05 chữ ký không đọc được.

- Tạm giữ để thi hành án cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động NOKIA đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Viettel số seri có ba số cuối là 698 đã được niêm phong dán kín ký hiệu A5, trên mặt niêm phong của phong bì có 02 hình dấu tròn màu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Chợ Đồn, 01 dòng chữ “Ngọc Mạnh H”, 01 dòng chữ “Nguyễn Viết H”, 01 dòng chữ “Hoàng Văn A”, 01 dòng chữ “Văn Tiến B”, 01 dòng chữ “Đào Văn H” và 05 chữ ký không đọc được.

[3]. Về án phí: Áp dụng Điều 135 và Điều 136/BLTTHS năm 2015; Luật án phí, lệ phí; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo A phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, đã sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự, đã sửa đổi, bổ sung.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2020/HSST ngày 14/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Đồn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;