Bản án 06/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 06/2020/HS-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 437/2019/TLST/HSST ngày 25 tháng 12 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 394/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2019:

Võ Thanh P, sinh năm: 1993; tai: tỉnh Đ; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: 15/6 đường số 8, khu phố N, phường TP, quận TĐ, Thành phố H; Nơi cư trú: Nhà không số hẻm 92, Lê Thị H, khu phố B, phường BC, quận TĐ, Thành phố H; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Thanh B và bà Trần Thị T; Tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 15/10/2019 cho đến nay (có mặt).

- Bị hại: Công ty TNHH B; Địa chỉ: 63 Trần Quang D, Phường M, quận P, Thành phố H. Đại diện theo pháp luật: Bà Trần Kim Nga, sinh năm 1961.

Đại diện theo ủy quyền: bà Đỗ Thùy N, sinh năm 1994 (vắng mặt); Địa chỉ: 50 Đặng Văn B, khu phố B, phường BT, quận T, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Do không có tiền trả nợ, tiêu xài nên khoảng 19 giờ ngày 14/10/2019, Võ Thanh P đến cửa hàng B’smart, địa chỉ số 357 Tô Ngọc Vân, khu phố 2, phường Linh Đông, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh giả vờ hỏi chị Mai Thị Phượng (sinh năm 2000) là nhân viên bán hàng mua 40 hộp giấy ướt nên chị Phượng phải lên kho trên lầu lấy hàng. Sau đó, P tiếp tục hỏi anh Đặng Thanh Khiêm (sinh năm 1998) là nhân viên bán hàng mua 10 hộp giấy khô nên anh Khiêm phải lên kho trên lầu lấy hàng. Lợi dụng phía dưới lầu không còn ai, P dùng tay bấm phím F1 của máy vi tính ở quầy tính tiền (do trước đây P là nhân viên của hệ thống cửa hàng B’Smart) rồi mở khóa tủ đựng tiền lấy trộm 3.500.000 đồng. Sau khi lấy được tiền P bỏ về hướng chợ Tam Hà kiểm tra tiền rồi về nhà lấy 3.000.000 đồng trả nợ, còn lại 500.000 đồng P tiêu xài hết. Đến 20 giờ cùng ngày, chị Phượng phát hiện mất tiền và qua hệ thống camera ghi nhận P lấy trộm nên đến Công an phường Linh Đông trình báo.

Ngày 15/10/2019, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức ra quyết định bắt người trong trường hợp khẩn cấp đối với Võ Thanh P.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức, Võ Thanh P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án:

- Số tiền 3.500.000 đồng (không thu hồi được):

- 01 USB chứa đoạn clip P lấy trộm (kèm theo hồ sơ vụ án).

Về trách nhiệm dân sự: Ngày 18/10/2019, chị Dương Thị Thu Thảo (sinh năm 1997) là bạn gái của P đứng ra đền bù số tiền 3.500.000 đồng cho chị Đỗ Thúy Nhiên là người đại diện của cửa hàng B’Smart theo giấy ủy quyền số 229/2019/UQ-BSM nên không có yêu cầu bồi thường.

[2] Bản Cáo trạng số 09/CT-VKSTĐ ngày 24/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Võ Thanh P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cùng các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù. Riêng 01 USB chứa đoạn clip P lấy trộm tài sản đề nghị Hội đồng xét xử lưu theo hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận hoặc bào chữa gì thêm, bị cáo tỏ thái độ ăn năn, hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt do bị cáo và xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo Võ Thanh P phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định:

Khoảng 19 giờ ngày 14/10//2019, Võ Thanh P đã có hành vi lén lút lấy trộm số tiền 3.500.000 đồng tại cửa hàng B’Smart, địa chỉ số 357 Tô Ngọc Vân, khu phố 2, phường Linh Đông, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 15/10/2019 thì bị bắt giữ.

Hành vi của bị cáo P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi hạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản thiệt hại không lớn là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Ngoài ra trong vụ án này người thân của bị cáo đã bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và đã bị tạm giam gần 03 tháng cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo có khả năng tự cải tạo trong môi trường xã hội cụ thể để hoàn lương, không cần thiết tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục và tạo điều kiện để bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã thu giữ 01 USB chứa đoạn clip P lấy trộm nên được lưu giữ theo hồ sơ vụ án là đúng pháp luật.

Vê trách nhiệm dân sự: bị hại đã được bồi thường thiệt hại và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Võ Thanh P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Võ Thanh P 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Áp dụng Khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên bố trả tự do cho bị cáo Võ Thanh P tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Giao bị cáo Võ Thanh P cho Ủy ban nhân dân phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phốp Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho hưởng án treo.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Võ Thanh P phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại vắng mặt, thời gian kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;