TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 06/2020/HSST NGÀY 10/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2020/TLST-HS ngày 05/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST-HS ngày 29/10/2020 đối với bị cáo:
Quàng Văn N, tên gọi khác: Không; sinh năm 1993 tại huyện T, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Quàng Văn T, sinh năm 1963 và bà Lò Thị D, sinh năm 1963; có vợ là Lò Thị V, sinh năm: 2000 và có 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2020; Không tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2020 đến ngày 05/11/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lường Văn Huấn – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Sơn La, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 09 giờ 30 phút ngày 11/9/2020, Tổ công tác Đội Điều tra tổng hợp Công an huyện Thuận Châu phối hợp với Công an thị trấn Thuận Châu, huyện T, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu 1, thị trấn T, huyện T, phát hiện Quàng Văn N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Tang vật thu giữ gồm: 01 (một) gói giấy, mặt bên ngoài màu bạc, mặt bên trong màu trắng, bên trong có chứa bột cục màu trắng nghi là Heroine (theo Quàng Văn N khai là Heroine).
Hồi 13 giờ 30 phút ngày 11/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu giám định, kết quả: số bột cục màu trắng trong gói giấy bạc có khối lượng 0,13 gam. Trích toàn bộ 0,13 gam ký hiệu N1 gửi giám định.
Tại Kết luận giám định số: 1472 ngày 15/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu N1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,13 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,13 gam, loại Heroine.
Quá trình điều tra Quàng Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 11/9/2020, Quàng Văn N đi bộ một mình từ nhà ở bản N, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La ra đường Quốc lộ 6A, đón xe bus xuống thị trấn T, huyện T, mục đích mua ma túy để sử dụng. Khoảng 09 giờ 15 phút, N xuống xe bus và đi bộ theo đường lên Tiểu khu 1, thị trấn T, huyện T. Tại đây N gặp và mua được của một người đàn ông (N không biết tên, địa chỉ) một gói ma túy gói bằng giấy bạc với số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). Sau khi mua được Heroine, N cầm ở tay trái rồi đi bộ theo hướng ngược lại ra Quốc lộ 6A. Khi đi được 30m thì N gặp tổ công tác Công an huyện Thuận Châu và Công an thị trấn Thuận Châu và bị yêu cầu kiểm tra ma túy. Quàng Văn N đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói Heroine. Tổ công tác đã dẫn giải Quàng Văn N về Ủy ban nhân dân thị trấn Thuận Châu lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 119/CT- VKS ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố bị cáo Quàng Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Quàng Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Quàng Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Quàng Văn N từ 16 đến 22 tháng tù.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,07 gam Heroine, 01 mảnh giấy bạc, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu giám định đã bóc mở.
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn N.
Tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn N thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Quàng Văn N: Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo khẳng định hành vi phạm tội của bị cáo đúng như cáo trạng truy tố, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Ngày 11/9/2020 bị cáo Quàng Văn N đã có hành vi cất giữ trái phép 0,13 gam chất ma túy, loại chất Heroine trong người với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực Tiểu khu 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sơn La.
Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 09 giờ 45 phút ngày 11/9/2020 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh Sơn La; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại vật chứng; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 1472 ngày 15/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.
Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Quàng Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Quàng Văn N khai mua của người đàn ông tại khu vực Tiểu khu 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sơn La vào ngày 11/9/2020. Quá trình điều tra xác định N không biết họ tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán ma túy cho N, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thuận Châu không có đủ căn cứ để điều tra, xử lý.
[6] Vật chứng vụ án:
Đối với 0,07 gam Heroine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 mảnh giấy bạc, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[7] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn N.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Quàng Văn N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Quàng Văn N 18 (mười tám) tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam 01 (một) tháng 24 (hai mươi tư) ngày, bị cáo còn phải chấp hành tiếp là 16 (mười sáu) tháng 06 (sáu) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành hình phạt tù.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự:
điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: một phong bì niêm phong viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn N - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 11/9/2020, mặt sau phong bì dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 026021 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu: 01 gói giấy bạc + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu; một phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, mặt trước ghi: Vật chứng vụ Quàng Văn N - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 11/9/2020 tại Thị trấn Thuận Châu, huyện T, tỉnh Sơn La gồm có: vỏ phong bì cũ gửi giám định + chất bột cục màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu N1, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,07 gam.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn N.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Quàng Văn N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Bản án 06/2020/HSST ngày 10/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 06/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về