Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 18/05/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 06/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 18 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 37/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16/4/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Quang B, sinh năm 1989 (có mặt)

HKTT: Xóm NC, xã NH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên

2. Bị đơn: Chị Lường Thị T, sinh năm 1994 (vắng mặt)

HKTT: Xóm NC, xã NH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên

Địa chỉ hiện tại: Xóm LN, xã TT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 19/02/2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Lê Quang B trình bày như sau: Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Lường Thị T kết hôn 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã NH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện và có tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại xóm NC, xã NH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên. Quá trình chung sống không có mâu thuẫn gì. Tới năm 2017, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn vì anh phát hiện thấy chị T có quan hệ với người đàn ông khác. Từ khi xảy ra mâu thuẫn, chị T đã bỏ đi, sau đó anh được biết chị T về nhà mẹ đẻ ở. Anh có gọi điện nhưng chị T không về. Từ đó đến nay, vợ chồng sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Lê Huy C, sinh ngày 14/12/2011. Hiện con chung đang ở với bố. Từ khi chị T bỏ đi, chị không quan tâm gì đến con. Nay, anh xin được nuôi con, anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh xác định không có.

Bị đơn chị Lường Thị T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không có lời khai. Tại các biên bản xác minh của Tòa án tại gia đình chị T, bà Ma Thị N - mẹ đẻ của chị T cho biết: Bà là mẹ đẻ của chị T. Vợ chồng chị T, anh B kết hôn năm 2011 và chung sống với nhau tại xã NH cho đến cách đây vài năm, chị T không chung sống với anh B nữa. Sau khi chị T đi khỏi nhà chồng, chị về ở với bà nhưng cũng thường xuyên đi làm xa, thỉnh thoảng mới về nhà. Bà không biết địa chỉ nơi làm việc của chị T ở đâu. Bà đã nhiều lần khuyên chị T thương chồng thương con để về đoàn tụ nhưng chị T không nghe. Chị T và anh B có 01 con chung hiện đang ở với bố. Lâu nay, bà không thấy chị T về thăm con. Chị T đã biết việc Tòa án thụ lý vụ án và triệu tập chị đến Tòa, đã nhận được đầy đủ thông báo và giấy triệu tập của Tòa án nhưng chị không có ý kiến gì.

Tại biên bản làm việc của Tòa án ngày 02/3/2020, cháu Lê Huy C xác định cháu đang ở với bố, cuộc sống của cháu hoàn toàn ổn định, không bị thiếu thốn gì. Mẹ cháu không quan tâm, hỏi thăm cháu. Nguyện vọng của cháu là muốn được ở với bố vì bố quan tâm và đảm bảo cuộc sống của cháu.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Vic tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vic chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều: 21, 28, 39, 147, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều: 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn anh Lê Quang B, cho anh B được ly hôn chị T.

Về con chung: Giao con Lê Huy C cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng.

Tm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho chị T vì anh B không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết.

Về án phí: Anh B phải nộp 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp về Hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong vụ án này, nguyên đơn và bị đơn thường trú tại xóm NC, xã NH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Lường Thị T đã được triệu tập hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng chị T vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án cũng đã hai lần tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập phiên tòa cho bị đơn nhưng tại phiên tòa lần thứ hai, chị T vẫn vắng mặt nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn chị Lường Thị T.

[2] Về nội dung:

Anh Lê Quang B và chị Lường Thị T kết hôn năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã NH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện nên là cuộc hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Về tình trạng hôn nhân, căn cứ lời khai của nguyên đơn và nội dung biên bản xác minh của Tòa án, có cơ sở xác định: Sau khi kết hôn, anh B và chị T đã chung sống hạnh phúc trong những năm đầu, đến năm 2017, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn vì lý do anh B nghi ngờ chị T có quan hệ ngoại tình nên chị T bỏ đi khỏi nhà. Từ đó đến nay, vợ chồng sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau nữa. Mặc dù gia đình đã khuyên nhủ nhưng chị T không quay về đoàn tụ vợ chồng. Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Trong trường hợp này, anh B và chị T thực tế đã không còn thương yêu, quan tâm, chung sống với nhau nữa. Mặt khác, chị T đã biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn của vợ chồng mình nhưng chị không có ý kiến gì thể hiện mong muốn níu ké cuộc hôn nhân. Điều đó cho thấy, tình trạng hôn nhân của anh B và chị T đã trở nên mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm và không thể chung sống được với nhau nữa, vi phạm quy định về tình nghĩa vợ chồng theo Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình. Nếu tiếp tục kéo dài cuộc hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên. Do vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh B, cho anh B được ly hôn chị T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

+ Về con chung: Anh B và chị T có 01 con chung là Lê Huy C, sinh ngày 14/12/2011, hiện cháu C đang ở cùng với bố. Anh B có nguyện vọng muốn được tiếp tục nuôi dưỡng con sau khi vợ chồng ly hôn và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ lời khai của anh B, lời trình bày của cháu C, biên bản xác minh của Tòa án qua thân nhân của chị T, có căn cứ xác định, từ khi chị T và anh B ly thân, chị T không quan tâm gì đến con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T cũng không có ý kiến gì nên không có căn cứ để xem xét quyền nuôi con cho chị T. Do vậy, xét yêu cầu xin nuôi con của anh B là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với nguyện vọng của con chung là cháu Lê Huy C, cần giao con chung cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Chị T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho chị T vì anh B không yêu cầu.

Vì lợi ích của con, sau khi ly hôn, các đương sự có quyền thỏa thuận hoặc có quyền khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc về việc cấp dưỡng nuôi con nếu thấy cần thiết.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Anh B xác định không có, không có yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị T vắng mặt, không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí:

n cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, anh B phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tố tụng và nội dung giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 19, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Lê Quang B đối với chị Lường Thị T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Quang B được ly hôn chị Lường Thị T.

2. Về con chung: Anh B và chị T có 01 con chung là Lê Huy C, sinh ngày 14/12/2011. Giao con Lê Huy C cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên(đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có sự thay đổi khác.Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho chị T. Chị T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết.

4. Án phí: Anh Lê Quang B phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung quỹ Nhà nước. Được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo B lai thu số 0016582 ngày 20/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Anh B được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 18/05/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:06/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;