Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 17/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 06/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/01/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 485/2019/TLST-HNGĐ, ngày 18 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 247/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 30 tháng 12 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 496/2020/QĐST, ngày 08 tháng 01 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Lê Thị H – sinh năm 1987. Địa chỉ cư trú: xóm Đ, xã H, huyện Y, tỉnh N.

- Bị đơn: anh Nguyễn Đức T – sinh năm 1985. Địa chỉ cư trú: xóm Đ, xã H, huyện Y, tỉnh N.

(chị H có đơn xin vắng mặt, anh T vắng mặt lần thứ hai)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn đề ngày 16/12/2019, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Lê Thị H trình bày: chị và anh Nguyễn Đức T kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn vào ngày 12 tháng 8 năm 2009, tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Y, tỉnh N. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được 9 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, thường xuyên cãi vả khiến cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng và nặng nề. Vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Chị xác định hai bên không còn tình cảm với nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được chị yêu cầu tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

- Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Nguyễn Tuấn V - sinh ngày 29/11/2007; Nguyễn Tuấn H – sinh ngày 02/9/2009 và Nguyễn Tuấn H – sinh ngày 07/02/2017. Hiện nay con chung đang ở với chị, chị không muốn xáo trộn cuộc sống cũng như việc học tập của con chị đề nghị tòa án giữ nguyên hiện trạng và chị có nguyện vọng được nuôi cả 3 con không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con;

- Về tài sản: chị Lê Thị H không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn anh Nguyễn Đức T quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T vẫn không có mặt. Tòa án đã trực tiếp tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh T theo đúng quy định của pháp luật đồng thời lập biên bản tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho mẹ đẻ của anh T là bà Đinh Thị T, bà T đã cam kết nhận trách nhiệm giao lại cho anh T nhưng anh T vẫn không có mặt, vì vậy Tòa án không tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và cũng không lấy lời khai của anh T được. Tuy nhiên qua tài liệu do nguyên đơn cung cấp và qua biên bản xác minh tại xóm, xã thì tình trạng hôn nhân, con chung chưa thành niên giữa chị H và anh T đúng như chị Hợp trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

1.Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị H, anh T, yêu cầu anh, chị có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nhưng anh T không có mặt. Vì vậy Toà án đã lập biên bản theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.

Ngày 30/12/2019, Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 08/01/2020 chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt các văn bản tố tụng phiên toà lần thứ hai cho các bên đương sự tuy nhiên tại phiên toà hôm nay, anh T tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, anh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 điều 228, khoản 2 điều 227 bộ luật TTDS tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn và nguyên đơn khi có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Về nội dung:

- Quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị H, anh T là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng những năm gần đây không được hạnh phúc, mâu thuẫn liên tục xảy ra và đã thực sự căng thẳng, trầm trọng, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Trên cở sở đó xác định tình cảm vợ chồng không còn gắn kết với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị H yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh T là có căn cứ, cần chấp nhận.

- Quan hệ con chung: Quá trình giải quyết vụ án chị H có nguyện vọng yêu cầu Tòa án giữ nguyên hiện trạng về con chung bởi lẽ con chung hiện nay đang ở ổn định chị không muốn thay đổi. Chị đề nghị Tòa xem xét nguyện vọng.

Xét tình hình thực tế từ khi vợ chồng ly thân thì cả 3 cháu đã ở cùng với chị Hợp bên ngoại và có gia đình, người thân hỗ trợ, hơn nữa các con chung còn nhỏ.

Rất cần sự chăm sóc khéo léo của người mẹ. Hơn nữa anh T nghề nghiệp không ổn định, lại thường xuyên đi làm ăn ở xa nên không có điều kiện gần gũi chăm sóc con chung. Vì vậy nên cần giữ nguyên hiện trạng để ổn định sinh hoạt của con chung do đó tiếp tục giao cả 3 con chung là Nguyễn Tuấn V - sinh ngày 29/11/2007; Nguyễn Tuấn H – sinh ngày 02/9/2009 và Nguyễn Tuấn H – sinh ngày 07/02/2017 cho chị Lê Thị H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T là phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp nguyện vọng của các con cũng như quy định của pháp luật.

- Quan hệ tài sản: chị H không yêu cầu tòa án giải quyết nên miễn xét.

*Về án phí: chị H phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 28; khoản 1 điều 228; khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51; 56; 81; 82; 83 của Luật Hôn Nhân và Gia đình;

- Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị H được ly hôn anh Nguyễn Đức T

- Về con chung: Tiếp tục giao con chung là cháu Nguyễn Tuấn V - sinh ngày 29/11/2007; Nguyễn Tuấn H – sinh ngày 02/9/2009 và Nguyễn Tuấn H – sinh ngày 07/02/2017 cho chị Lê Thị H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh T đến khi có yêu cầu.

Anh T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

- Án phí: Căn cứ vào khoản 4 điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

Buộc chị Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị Hợp được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành (Biên lai thu tiền số: 0000199, ngày 18 tháng 12 năm 2019), chị H đã nộp đủ án phí. Án xử công khai sơ thẩm. Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Đức T đều vắng mặt.

Tuyên bố để các bên đương sự biết. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

392
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 17/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:06/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;