Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 06/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 644/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2020/QĐXX-ST ngày 05 tháng 3 năm 2020 và Thông báo mở lại phiên tòa số 160/2020/TB-TA ngày 20 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tố N - Sinh năm 1976 Nơi ĐKHKTT: tổ 7, phố T1, phường T2, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Anh Nguyễn Trung K – Sinh năm 1976 ĐKHKTT tại: tổ 7, phố T1, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

Hiện nay đều ở tại: Khu Tiên Sơn, phường Tiên Cát, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. (Chị N, anh K có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về quan hệ hôn nhân: Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án tại Toa án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Tố N trình bày: Chị và anh Nguyễn Trung K đăng ký kết hôn năm 2002 tại UBND phường T2, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Trước khi kết hôn hai bên được tự nguyện tìm hiểu tự nguyện. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng ở riêng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, chị đã làm đơn xin ly hôn 02 lần vào năm 2016 và năm 2018. Sau đó chị rút đơn để vợ chồng về đoàn tụ, cùng nuôi dạy con chung nhưng chị lại thấy quan hệ hôn nhân còn tồi tệ hơn rất nhiều nên chị xin ly hôn, nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng không có tiếng nói chung, vợ chồng cãi nhau nhiều. Nay chị N xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh K.

Tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án bị đơn anh Nguyễn Trung K trình bày: Anh K nhất trí với những lời trình bày của chị N về ngày đăng ký kết hôn, quá trình chung sống và mâu thuẫn vợ chồng. Nay chị N xin ly hôn, anh K không nhất trí vì anh thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa đủ lớn. Theo anh vợ chồng mâu thuẫn là do chị N ghen tuông, sau đó chị N có gửi đơn ra Tòa án xin ly hôn 02 lần và lần này là lần thứ 03, lý do là vợ chồng cãi nhau nhỏ, do công việc nên anh chưa đồng ý ly hôn vì vợ chồng còn một số công việc liên quan đến nhau và liên quan đến việc nuôi dạy con chung.

Về con chung: Hai bên thống nhất xác định vợ chồng có 03 con chung là:

+ Cháu Nguyễn Quỳnh T – Sinh ngày 02/12/2003;

+ Cháu Nguyễn Quỳnh C- sinh ngày 20/10/2007 + Cháu Nguyễn Gia B- sinh ngày 09/9/2015 Trong quá trình giải quyết vụ án, chị N xin nuôi 03 cháu và yêu cầu anh K đóng học phí cho 03 cháu. Anh K xin nuôi cháu Nguyễn Quỳnh T – Sinh ngày 02/12/2003 (hiện nay cháu T đang du học tại Úc, nếu cháu T về nước sống và học tập thì anh K xin được nuôi cháu T) và cháu Nguyễn Gia B - Sinh ngày 09/9/2015 và không đề nghị chị N đóng góp nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Chị N và anh K đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, chị N vẫn giữ nguyên quan điểm, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh K, anh K không nhất trí ly hôn với chị N. Chị N có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 03 con chung, anh K xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bảo, nếu cháu T về nước anh đồng ý nuôi cháu T. Hai bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của chị N và anh K, đại diện khu dân cư cho biết: Chị N và anh K cư trú tại phố S, phường C1, thành phố V, tỉnh Phú Thọ từ năm 2010. Quá trình chung sống vợ chồng anh K, chị N đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, có xảy ra va chạm, cãi vã, chửi nhau, khu dân cư đã hòa giải 03 lần vào khoảng năm 2017, 2018. Sau đó chị N có làm đơn xin ly hôn, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì có đến xác minh nhưng sau đó kết quả N thế nào khu dân cư không biết. Có thời gian chị N chuyển về T2, thành phố V, tỉnh Phú Thọ nhưng sau đó lại chuyển về C1, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Nay chị N xin được ly hôn anh K và hai bên đều xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, quan điểm của chính quyền địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

-Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Cắn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81,82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tố N, xử cho chị Nguyễn Thị Tố N được ly hôn với anh Nguyễn Trung K.

- Về con chung: Giao cho chị N được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung là cháu Nguyễn Quỳnh C- sinh ngày 20/10/2007 và cháu Nguyễn Gia Bảo- sinh ngày 09/9/2015. Giao cho anh K được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Nguyễn Quỳnh T – Sinh ngày 02/12/2003.

Không ai phải đóng góp nuôi con chung cho ai.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Không xem xét giải quyết vì chị N và anh K không yêu cầu.

- Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc chị N phải chịu án phí theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nên Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa: Các văn bản tố tụng của Tòa án đã được tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên tòa cả nguyên đơn, bị đơn đều có mặt nên Tòa án xét xử vụ án là đúng quy định.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Trung K đăng ký kết hôn năm 2002 tại UBND phường T2, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Trước khi kết hôn hai bên được tự nguyện tìm hiểu tự nguyện. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng ở riêng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, chị đã làm đơn xin ly hôn 02 lần vào năm 2016 và năm 2018. Sau đó chị rút đơn để vợ chồng về đoàn tụ, cùng nuôi dạy con chung nhưng chị lại thấy quan hệ hôn nhân còn tồi tệ hơn rất nhiều nên chị xin ly hôn, nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng không có tiếng nói chung, vợ chồng cãi nhau nhiều. Nay chị N xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh K. Quan điểm của anh do công việc nên anh chưa đồng ý ly hôn vì vợ chồng còn một số công việc liên quan đến nhau và liên quan đến việc nuôi dạy con chung. Cả hai bên và chính quyền địa phương đều xác nhận vợ chồng chị N và anh K có mâu thuẫn. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng chị N vẫn K quyết xin ly hôn anh K, anh K không nhất trí ly hôn nhưng cũng không có những biện pháp cụ thể để cải thiện cuộc sống vợ chồng, hơn nữa anh K không đồng ý ly hôn vì còn công việc chưa giải quyết xong chứ không xác định vợ chồng còn tình cảm. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị N là có căn cứ vì cuộc sống chung giữa chị N và anh K không có hạnh phúc, mâu thuẫn đã ở mức trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần xử cho chị N được ly hôn anh K là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Hai bên thống nhất xác định vợ chồng có 03 con chung là:

+ Cháu Nguyễn Quỳnh T – Sinh ngày 02/12/2003;

+ Cháu Nguyễn Quỳnh C- sinh ngày 20/10/2007

+ Cháu Nguyễn Gia B- sinh ngày 09/9/2015 Tại phiên tòa hôm nay, chị N vẫn giữ nguyên quan điểm xin được trực tiếp nuôi 03 cháu và không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Anh K xin nuôi cháu cháu Nguyễn Gia B - Sinh ngày 09/9/2015. Hiện nay cháu T đang du học tại Úc, nếu cháu T về nước sống và học tập thì anh K đồng ý và không đề nghị chị N đóng góp nuôi con chung.

Xét về nguyện vọng xin được nuôi con của hai bên là chính đáng, cả chị N và anh K đều có thu nhập ổn định, có chỗ ở và có khả năng thực hiện tốt việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Tuy nhiên, cháu Nguyễn Quỳnh C và cháu Nguyễn Gia B còn nhỏ tuổi nên nên cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ, hơn nữa nguyện vọng của cháu Nguyễn Quỳnh C muốn ở với mẹ. Vì vậy, cần giao 02 con chung là cháu Nguyễn Quỳnh C- sinh ngày 20/10/2007 và cháu Nguyễn Gia B- sinh ngày 09/9/2015 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Đối với cháu Nguyễn Quỳnh T – sinh ngày 02/12/2003, hiện nay cháu đã lớn và có nguyện vọng muốn ở với bố nên giao cháu T cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Hai bên tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên cần ghi nhận sự tự nguyện này.

- Về tài sản chung, công nợ chung, công sức đóng góp: Chị N và anh K đều không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào: Các Điều 51, Khoản 1 Điều 56, 58, 81,82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tố N, cho chị Nguyễn Thị Tố N được ly hôn với anh Nguyễn Trung K.

2. Về con chung: Giao cho chị N được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung là cháu Nguyễn Quỳnh C- sinh ngày 20/10/2007 và cháu Nguyễn Gia B- sinh ngày 09/9/2015. Giao cho anh K được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Nguyễn Quỳnh T – Sinh ngày 02/12/2003.

Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

Hai bên đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tố N phải chịu 300.000đ (Batrăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị N đã nộp 300.000 đ(Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0000695 ngày 09 tháng 12 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:06/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;