Bản án 06/2019/HSST ngày 18/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 06/2019/HSST NGÀY 18/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18/01/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 05/2018/TLST- HS ngày 21/12/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST- HS ngày 05/01/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Thị Ph, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1977, tại Ninh Bình.

Trú tại: SN 96, tổ 7, phường NT, TPĐBP, tỉnh Điện Biên. Nơi ĐKHKTT: Phường NT, TPĐBP, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Duy T, sinh năm 1938 và bà: Phạm Thị X (đã chết); có chồng: Nguyễn Thanh S, sinh năm 1982 và 02 con, con lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2013; Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo đã có 01 án tích đã được xóa án, không bị xử lý hành chính; bị bắt từ ngày 30/9/2018 được bảo lĩnh tại ngoại từ ngày 08/10/2018 "có mặt".

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bùi Thị Th, sinh năm 1980 (có mặt).

Địa chỉ: SN 96, tổ 7, phường NT, TPĐBP, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 30/9/2018, bị cáo đi xe mô tô mượn của em gái từ thành phố ĐBP  đến khu vực đội 18, xã TC, huyện ĐB với mục đích là mua ma túy về sử dụng. Bị cáo gặp và nhờ Quàng Văn Th mua hộ 02 viên Methamphetamine với giá 100.000 đồng để bị cáo và Th cùng sử dụng, do Th có việc phải đi thu lúa đã không sử dụng cùng với bị cáo, nên bị cáo cất giấu gói ma túy vào dép dưới chân bên phải đang đi để mang về nhà sử dụng. Hồi 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi bị cáo đi về đến khu vực đội 15, xã TC thì tổ công tác Đồn Biên phòng PT phối hợp với Công an xã  TC  kiểm tra  phát  hiện  bắt  quả  tang,  thu  giữ  toàn  bộ  vật  chứng  là  01  gói Methamphetamine và 01 chiếc xe mô tô BKS 27F4-5878.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 01/10/2018 đã xác định: 02 viên nén màu hồng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 0,19 gam;

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số: 843/GĐ – PC09 ngày 10/10/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:

Mẫu viên nén màu hồng được trích từ vật chứng thu giữ của Bùi Thị Ph gửi giám định là Methamphetamine;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 05/CT-VKSHĐB ngày 21/12/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB đã truy tố bị cáo Bùi Thị Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện ĐB vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số: 02/2018/NQ - HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;  khoản 1, khoản 2 Điều 65/BLHS; khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo. Giao bị cáo cho UBND phường NT, thành phố ĐBP quản lý và giáo dục. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS về xử lý vật chứng. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của tôi, cho tôi xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện ĐB, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo.  Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

 [2]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Nếu bị phát hiện Nhà nước sẽ xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Nên cần phải xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Hành vi cất giấu 0,19 gam Methamphetamine, với mục đích để sử dụng của bị cáo. Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

 [3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo HĐXX thấy rằng: Do không có ý thức rèn luyện bản thân, bị cáo đã phạm tội. Năm 2000 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 07 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, nay đã được xóa án tích. Ngày 30/9/2018 bị cáo phạm tội trong vụ án này và bị bắt từ ngày 30/9/2018 đến ngày 08/10/2018 được bảo lãnh tại ngoại cho đến nay.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo. Hiện tại chồng bị cáo đang đi thi hành án, bị cáo là lao động chính và là lao động duy nhất trong gia đình, bị cáo còn có hai con còn nhỏ cùng với bố già hơn 80 tuổi (có xác nhận của chính quyền địa phương). Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS. Sau khi xem xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì HĐXX xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, hoàn cảnh gia đình bị cáo đặc biệt khó khăn, nếu xử phạt bị cáo tù giam thì hai con nhỏ và ông bố già của bị cáo sẽ không thể bảo đảm cho cuộc sống bình thường được, khối lượng ma túy tàng trữ ít (0,19gam). Để thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và tạo điều kiện cho bị cáo làm lại cuộc đời, không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương và gia đình giám sát giáo dục cũng đủ để bị cáo trở thành người tốt.

 [4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khả năng thi hành. Cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [5]. Đối với Quàng Văn Th theo bị cáo khai đã mua ma túy hộ bị cáo, song Thiên không thừa nhận, ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh, nên CQĐT không có cơ sở để điều tra xử lý đối với Thiên.

 [6]. Vật chứng của vụ án là 0,19 gam Methamphetamine, gửi giám định 0,1 gam (không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định) cần bị tịch thu, tiêu huỷ theo quy định tại  điểm điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Còn đối với chiếc xe mô tô BKS 27F4-5878 là của Bùi Thị Th, Th không biết bị cáo dùng xe vào việc phạm tội nên CQĐT đã trả cho Bùi Thị Th ngày 18/12/2018.

 [7]. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Bùi Thị Ph phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS; Nghị quyết số: 02/2018/NQ - HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;  khoản 1, khoản 2 Điều 65/BLHS; khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án xử phạt bị cáo Bùi Thị Ph 15 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gianthử thách là 30 tháng,  thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/01/2019).

Giao bị cáo cho UBND phường NT, thành phố ĐBP, tỉnh Điện Biên để giám sát và giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hình án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3.  Áp  dụng:  Điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a khoản 2   Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 0,19 gam Methamphetamine, gửi giám định 0,1 gam (không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định);

Chấp nhận biên bản về việc trả lại tài sản ngày 18/12/2018 Cơ quan điều tra Công an huyện ĐB.

 (Vật chứng đã được công an huyện ĐB chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB ngày 07/01/2019).

4.     Án  phí:  Áp dụng Điều 136/BLTTHS; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2019/HSST ngày 18/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;