Bản án 06/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 06/2019/HS-ST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre, Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công Ki vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 07/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh K (Đ), sinh năm: 1997 tại tỉnh Bến Tre. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm: 1971 (sống) và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1969 (đã chết); chưa lập gia đình; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 04 ngày 11/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, tỉnh Bến Tre; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Võ Tấn T – Luật sư Văn phòng Luật sư Võ Tấn T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre (Có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Đoàn Minh N, sinh năm: 1996.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm: 1971.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).

2. Bà Bùi Thị D, sinh năm: 1966.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).

3. Anh Đoàn Vĩnh H, sinh năm: 1991.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).

- Người làm chứng:

1. Anh Huỳnh Duy P, sinh năm: 1993.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).

2. Ông Trương Văn P, sinh năm: 1969.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

3. Bà Tạ Thị L, sinh năm: 1971.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

4. Bà Phạm Thị Q, sinh năm: 1942.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

5. Ông Nguyễn Văn T (UT), sinh năm: 1969.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

6. Ông Lê Văn Y (Rô Y), sinh năm: 1954.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

7. Bà Tô Thị H, sinh năm: 1956.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp BT, xã TT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ ngày 13/5/2018, Đoàn Long K sau khi đã có uống rượu điều khiển xe môtô 61D1-002.12 lưu thông trên lộ ấp BT, xã TT xảy ra va quẹt với xe môtô 61G1-325.41 do Nguyễn Thanh K điều khiển đi ngược chiều nhưng hai xe không té ngã. Khoảng 30 phút sau, trên đường về K gặp ông K nên dừng xe lại, hai bên cự cãi rồi K dùng tay đánh vào đầu và lưng nhưng ông K không đánh trả nên K bỏ đi. Lúc này ông K tiếp tục có lời lẽ chửi xúc phạm nên K quay lại đứng đối diện đánh đầu gối chân trái trúng vào vùng bụng ông K và dùng hai tay đẩy vào ngực làm ông K té ngã xuống lộ rồi K đi về nhà, ông K đi vào nhà người dân gần đó nằm nghỉ. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày ông K được mọi người đưa đi bệnh viện, khoảng 15 giờ ngày 15/5/2018 thì tử vong.

Vt chứng tạm giữ trong vụ án gồm: Một xe môtô, loại Wave, biển số 61D1- 002.12, số máy VZS152FMH*477399*, số khung RN80CHHN88B477399; một xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter màu sơn xanh trắng biển số 61G1-325.41, số khung DY240063, số máy 55P1-240082; một nón bảo hiểm loại nữa đầu màu đỏ.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 33-9518/TT ngày 13/6/2018 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh Bến Tre kết luận nguyên nhân Đoàn Long K tử vong: Shock (choáng) nhiễm trùng, nhiễm độc; viêm phúc mạc toàn bộ do vỡ tạng rỗng bởi chấn thương bụng kín/ thiểu dưỡng cơ tim cấp.

Ti Bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 39/18/GĐHS ngày 10/9/2018 của Phân viện tại Thành phố Hồ Chí Minh - Viện pháp y quốc gia kết luận cơ chế hình thành dấu vết: Nạn nhân Đoàn Long K bị vỡ đoạn D2 tá tràng 2 lỗ do tác động của vật tày trực tiếp vào vùng bụng gây nên. Khi tác động ngoại lực vào vùng bụng với một lực đủ mạnh thì có thể gây ra vỡ 2 lỗ tá tràng đoạn D2. Một người dùng đầu gối chân trái đánh vào bụng nạn nhân Đoàn Long K thì có thể gây ra vỡ đoạn D2 tá tràng 2 lỗ như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 31 tháng 01 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện M để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Thanh K (Đ) về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Thanh K trình bày: Vào khoảng 16 giờ ngày 13/5/2018, bị cáo điều khiển xe môtô đi từ nhà hướng ra Quốc lộ 60, khi đến khu vực ấp BT, xã TT thì thấy ông Đoàn Long K điều khiển xe lưu thông theo chiều ngược lại, ông K điều khiển xe với tốc độ nhanh và loạn choạng nên hai bên xảy ra va quẹt. Một lát sau trên đường bị cáo đi về nhà thì gặp ông K và có nói với ông về việc va quẹt xe lúc chiều, ông K dùng những lời lẽ thô tục xúc phạm bị cáo nên hai bên xảy ra cự cãi. Bị cáo dùng tay đánh vào đầu và lưng nhưng ông K không đánh trả nên bị cáo bỏ đi. Lúc này ông K tiếp tục có lời lẽ xúc phạm nên bị cáo quay lại dùng đầu gối chân trái đánh trúng vào bụng và dùng tay đẩy ông K té ngã xuống lộ và bỏ ra về. Sau đó, bị cáo mới biết ông K tử vong. Sự việc xảy ra do lỗi của bị cáo nên bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của gia đình bị hại.

Người đại diện hợp pháp của bị hại anh Đoàn Minh N trình bày: Vào chiều ngày 13/5/2018, cha anh là Đoàn Long K bị Nguyễn Thanh K đánh, đến ngày 15/5/2018 thì tử vong. Anh yêu cầu bị cáo có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là 132.700.000 đồng. Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo thì đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị D trình bày: Vào tối ngày 13/5/2018, khi ông K về nhà thì ông có nói với bà là bị Nguyễn Thanh K đánh bị thương và đau ở vùng bụng. Sau đó, ông K được mọi người đưa đi bệnh viện điều trị đến chiều ngày 15/5/2018 thì tử vong. Bà yêu cầu bị cáo có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại với tổng số tiền 132.700.000 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đoàn Vĩnh H trình bày: Anh thống nhất với ý K trình bày của anh Đoàn Minh N, không có ý K trình bày gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn B trình bày: Vào tối ngày 13/5/2018, ông mới biết sự việc Nguyễn Thanh K đánh ông Đoàn Long K bị thương, ông có đến Trạm Y xã để xem tình hình sức khỏe của ông K như thế nào. Do sức khỏe của ông K không được tốt nên phải chuyển lên bệnh viện tuyến trên, đến chiều ngày 15/5/2018 thì ông K tử vong. Ông có cho bị cáo số tiền 20.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, ông không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền trên.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về vụ án, cho rằng: Việc truy tố hành vi của các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên bảo lưu toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh K (Đ) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh K từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:

Ghi nhận bị cáo Nguyễn Thanh K đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của gia đình bị hại Đoàn Long K với tổng số tiền là 132.700.000 đồng gồm: Chi phí mai táng là 35.000.000 đồng; tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm là 41.700.000 đồng; tiền cấp dưỡng nuôi con ruột bị hại tên Đoàn Duy K, sinh ngày 10/02/2005 là 56.000.000 đồng, đã bồi thường được số tiền 20.000.000 đồng. Buộc bị cáo K tiếp tục có nghĩa vụ bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 112.700.000 đồng.

Ghi nhận ông Nguyễn Văn B là cha ruột của bị cáo đã cho bị cáo số tiền 20.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại, ông không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền trên.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:

Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M đã trao trả cho chủ sở hữu Đoàn Vĩnh H một xe môtô, loại Wave, biển số 61D1-002.12.

Tm giữ để đảm bảo thi hành án đối với xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 61G1-325.41 của bị cáo.

Đi với cái nón bảo hiểm loại nửa đầu màu đỏ do đại diện hợp pháp bị hại Đoàn Minh N không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh K là ông Võ Tấn T trình bày:

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thanh K mà Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật nên không có ý K tranh luận về điều khoản áp dụng và mức hình phạt. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hành vi phạm tội của bị cáo có một phần lỗi của bị hại do bị hại có lời lẽ xúc phạm bị cáo dẫn đến bị cáo có hành vi đánh bị hại. Bên cạnh đó, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo từ 04 năm đến 06 năm tù. Về trách nhiệm dân sự, xét thấy các bên đã thỏa thuận với nhau và phù hợp với quy định của pháp luật nên không có ý K tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý K hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Ki nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu trên. Bị cáo nhận tội, lời Ki của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời Ki của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở xác định:

Khong 16 giờ 30 phút ngày 13/5/2018 trên lộ ấp BT, xã TT, huyện M, Nguyễn Thanh K có hành vi dùng đầu gối chân trái đánh trúng vùng bụng bị hại Đoàn Long K gây vỡ tạng rỗng dẫn đến tử vong vào ngày 15/5/2018.

Bị cáo Nguyễn Thanh K là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ hành vi xâm hại sức khỏe của người khác là hành vi vi phạm phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện đây là lỗi cố ý trực tiếp của bị cáo. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Thanh K phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là phù hợp, đúng quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khoẻ, tính mạng của ông Đoàn Long K, gây ảnh hưởng không tốt đến tình hình an ninh trật tự khu dân cư nơi xảy ra vụ án, gây tâm lý bất an cho người dân. Vì vậy, cần đưa vụ án ra xét xử là điều cần thiết, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này hiện nay.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại; bị cáo đã thành khẩn Ki báo, ăn năn hối cải và bị cáo có cậu ruột là liệt sỹ, bác ruột là thương binh. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo Nguyễn Thanh K đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 20.000.000 đồng. Buộc bị cáo có nghĩa vụ tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại Đoàn Long K số tiền 112.700.000 đồng. Ông Nguyễn Văn B là cha ruột của bị cáo đã cho bị cáo số tiền 20.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại và không yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền trên. Xét thấy đây là ý chí tự nguyện của các đương sự, phù hợp với quy định pháp luật nên cần ghi nhận.

[5] Về xử lý vật chứng:

Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M đã trao trả cho Đoàn Vĩnh H một xe môtô, loại Wave, biển số 61D1-002.12, số máy VZS152FMH*477399*, số khung RN80CHHN88B477399.

Tm giữ để đảm bảo thi hành án đối với xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 61G1-325.41, số máy 55P1-240082, số khung DY240063 là tài sản riêng của bị cáo giao nộp.

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) nón bảo hiểm màu đỏ, loại nón đội nửa đầu, đã qua sử dụng.

[6] Về án phí:

Bị cáo Nguyễn Thanh K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh K (Đ) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;

khon 1 Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh K (Đ) 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 591 Bộ luật dân sự:

Ghi nhận bị cáo Nguyễn Thanh K đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng). Buộc bị cáo Nguyễn Thanh K có nghĩa vụ tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại Đoàn Long K số tiền 112.700.000đ (Một trăm mười hai triệu bảy trăm nghìn đồng).

Ghi nhận ông Nguyễn Văn B là cha ruột của bị cáo đã cho bị cáo số tiền 20.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại và không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền trên.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M đã trao trả cho Đoàn Vĩnh H một xe môtô, loại Wave, biển số 61D1-002.12, số máy VZS152FMH*477399*, số khung RN80CHHN88B477399.

Tm giữ để đảm bảo thi hành án đối với xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 61G1-325.41, số máy 55P1-240082, số khung DY240063 của bị cáo.

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) nón bảo hiểm màu đỏ, loại nón đội nửa đầu, đã qua sử dụng.

Về nghĩa vụ chịu tiền án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Thanh K phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm là 5.635.000đ (Năm triệu sáu trăm ba mươi lăm nghìn đồng).

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:06/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;