Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 28/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 03 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 303/2018/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐXX-ST ngày 21 tháng 02 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 02/2019/QĐST HNGĐ ngày 13/3/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1989; Địa chỉ: Thôn V, xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

Bị đơn: Anh Tạ Quốc T, sinh năm 1985; Địa chỉ: Thôn V, xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình .

Tại phiên toà: Chị Th (có mặt), anh T (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai chị Nguyễn Thị Th trình bày: Chị kết hôn với anh Tạ Quốc T ngày 17/03/2008, có được tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống ở thôn V, xã N, thành phố Ninh Bình, cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T nghiện ma túy. Từ năm 2008 đến năm 2015 anh T ba lần bị Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy” đến tháng 8 năm 2018 anh T ra trại. Trước khi anh T ra trại, khoảng tháng 6 năm 2018 chị thấy anh T không thể sửa chữa được nên chị đã cho 2 con ra ngoài thuê nhà sinh sống từ đó vợ chồng không liên lạc với nhau, không ai quan tâm đến ai. Sau khi anh T ra tù ở với bố mẹ anh T tại thôn V, xã N, thành phố Ninh Bình. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T để giải phóng cho nhau.

Về con chung: Chị và anh T có 2 con chung là cháu Tạ Tuấn A, sinh ngày 03/5/2008 và cháu Tạ Thị Quỳnh Tr, sinh ngày 07/02/2011, hiện nay hai cháu đang ở với chị, khi ly hôn chị xin được chăm sóc nuôi dưỡng cả hai cháu và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và công nợ chung: Không có nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết. Tại biên bản làm việc ngày 13/11/2018 Tòa án đã giải thích quyền và nghĩa vụ cho anh Tạ Quốc T để anh T có ý kiến về việc chị Nguyễn Thị Th xin ly hôn, anh T trình bày: Anh theo đạo thiên chúa giáo, nên không được phép ly hôn, còn việc chị Th làm đơn xin ly hôn anh là quyền chị Th, anh không có ý kiến gì, anh không làm bản tự khai và cũng không ký vào bất kể giấy tờ gì của Tòa án về việc chị Th xin ly hôn anh.

Tại phiên tòa chị Th vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết cho chị được ly hôn anh Tạ Quốc T và xin được chăm sóc nuôi dưỡng cả hai cháu và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng cho con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình phát biểu ý kiến về việc T theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đã tuân thủ, thực hiện đầy đủ, đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật; Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị HĐXX: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th về việc “Xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Tạ Quốc T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Th với anh Tạ Quốc T.

2. Về con chung: Giao hai cháu Tạ Tuấn A, sinh ngày 03/5/2008 và cháu Tạ Thị Quỳnh Tr, sinh ngày 07/02/2011 cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng kể từ tháng 4 năm 2019 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng tiền cho con: Chị Th không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng cho con, nên không xem xét giải quyết.

3. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Th phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm 300.000đồng, được trừ vào số tiền 300.000 đồng chị Th đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trình bày của các đương sự và được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa ngày 13/3/2019, chị Nguyễn Thị Th có mặt, anh Tạ Quốc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, Điều 233 và Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa và ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào hồi 7 giờ 30 phút, ngày 28 tháng 3 năm 2019.

Tại phiên tòa ngày 28/3/2019, chị Nguyễn Thị Th có mặt, anh Tạ Quốc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Tạ Quốc T và chị Nguyễn Thị Th kết hôn với nhau vào ngày 17/03/2008 tại UBND xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Việc kết hôn của anh T và chị Th là tự nguyện, hợp pháp đúng theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T nghiện ma túy, đã ba lần phải đi chấp hành án đều về tội phạm liên quan đến ma túy dẫn đến chị Th mất niềm tin đối với anh T. Tháng 8 năm 2018 anh T chấp hành án xong về nhà nhưng chị Th và con đã dọn ra ngoài sinh sống, vợ chồng không liên lạc với nhau, không ai quan tâm đến ai, bản thân anh T không đến Tòa án để giải quyết vụ án và chỉ trình bày anh theo đạo thiên chúa giáo nên không được phép ly hôn, chị Th ly hôn là quyền của chị Th anh không có ý kiến gì, chứng tỏ bản thân anh T cũng không thiết tha trong việc cải thiện quan hệ vợ chồng để vợ chồng có thể về đoàn tụ. Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Th và anh T chỉ tồn tại về mặt hình thức, tình cảm vợ chồng thực sự không còn mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Th là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Th và anh Tạ Quốc T có hai con chung là cháu Tạ Tuấn A, sinh ngày 03/5/2008 và cháu Tạ Thị Quỳnh Tr, sinh ngày 07/02/2011, khi ly hôn chị Th xin được chăm sóc nuôi dưỡng cả 2 cháu, không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con. Xét thấy: Chị Th làm nghề kinh doanh, có thu nhập, chăm sóc nuôi dạy các cháu tốt kể cả khi anh T đang chấp hành án trong trại. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các cháu và nguyện vọng của hai cháu đều xin được ở với mẹ. HĐXX xét thấy nên giao cho chị Nguyễn Thị Th tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cả hai cháu A và cháu Tr kể từ tháng 4 năm 2019 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng tiền cho con: Chị Th không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng cho con, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung và công nợ: Chị Th xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Th phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với anh Tạ Quốc T.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th ly hôn anh Tạ Quốc T.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Tạ Tuấn A, sinh ngày 03/5/2008 và cháu Tạ Thị Quỳnh Tr, sinh ngày 07/02/2011, kể từ tháng 4 năm 2019 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Chị Nguyễn Thị Th không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con do vậy không xem xét giải quyết. Anh Tạ Quốc T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở và có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con sau khi ly hôn.

3. Về tài sản chung và công nợ: Chị Th xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết do vậy không xem xét giải quyết.

4. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Th phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000đồng chị Th đã nộp theo biên lại thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000943 ngày 22/10/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.

Án xử sơ thẩm công khai chị Th có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 28 tháng 03 năm 2019; Anh T vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6 Điều 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 28/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;