Bản án 06/2019/DS-ST ngày 03/04/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH THƯỢNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 06/2019/DS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 4 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 190/2018/TLST-DS, ngày 24 tháng 12 năm 2018 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2019/QĐXXST-DS, ngày 11 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2019/QĐHPT-DS, ngày 21 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị U, sinh năm: 1960

Địa chỉ: Ấp C, xã M, huyện U, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1973 (có mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trần Bảo T, sinh năm: 1969 (chồng bà H, vắng mặt không lý do).

Cùng địa chỉ: Ấp T, xã M, huyện U, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08/11/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Thị U trình bày:

Ngày 06/11/2017 bà Nguyễn Thị H (sau đây gọi tắt là bà H) có hỏi mượn (vay) của bà Lê Thị U (sau đây gọi tắt là bà U) số tiền 25.000.000 đồng để trang trải học phí cho con, bà H hẹn 01 tháng sẽ trả lại cho bà U. Nhưng sau đó bà H không trả. Bà U có đòi nhiều lần, sau đó bà H có trả được cho bà U 2.000.000 đồng, còn lại 23.000.000 đồng đến nay không trả.

Bà U yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị H, ông Trần Bảo T trả số tiền vay gốc 23.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất.

Bị đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà H thừa nhận ngày 20/6/2017 có vay của bà U số tiền 25.000.000 đồng để trang trải học phí cho con. Đến ngày 20/12/2017 bà H trả cho bà U được 2.000.000 đồng, còn thiếu lại 23.000.000 đồng. Do gia đình hoàn cảnh khó khăn bà H xin được trả dần mỗi tháng 4.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Bảo T (chồng bà H, sau đây gọi tắt là ông T) được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải đến lần thứ hai nhưng đều vắng mặt không có lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia xét xử nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến trình bày.

Ti phiên tòa, nguyên đơn bà Lê Thị U giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn bà Nguyễn Thị H xin trả cho bà U mỗi tháng 500.000 đồng cho đến khi dứt nợ nhưng bà U không đồng ý.

Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ:

Tài liệu do nguyên đơn cung cấp: Giấy chứng minh nhân dân (bản sao), Sổ hộ khẩu (bản sao), Đơn thưa ngày 30/5/2018 (bản gốc), Tờ giấy có nội dung biên nhận nợ của bà H (bản phô tô); Biên bản hòa giải ngày 13/6/2018 (bản gốc); Đơn xin xác nhận nơi cư trú (bản gốc).

Bị đơn cung cấp: Bản tự khai ngày 22/01/2019.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng: Ngưi có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trần Bảo T (chồng bà H) được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia xét xử nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông T.

[2]. Về quan hệ pháp luật: Tranh chấp giữa nguyên đơn bà bà Lê Thị U với bị đơn bà Nguyễn Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Bảo T là tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản. Cụ thể bà U yêu cầu vợ chồng bà H, ông T trả số tiền vay gốc là 23.000.000 đồng.

[3].Về nội dung tranh chấp:

Xét yêu cầu của nguyên đơn và ý kiến trình bày của bị đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại phiên tòa và biên bản hòa giải ngày 22/01/2019 bà H thừa nhận có vay của bà U số tiền 25.000.000 đồng, nhưng sau đó đã trả cho bà U được 2.000.000 đồng, còn lại 23.000.000 đồng. Hiện nay do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bà H xin trả cho bà U mỗi tháng 500.000 đồng cho đến khi dứt nợ, nhưng bà U không đồng ý.

Xét việc bà H thừa nhận có vay tiền của bà U nhưng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà U theo thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về việc bà H đồng ý trả nợ cho bà U nhưng xin trả mỗi tháng 500.000 đồng cho đến khi dứt nợ nhưng bà U không đồng ý, Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo quy định tại mục 1, phần III, Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ tư pháp – Bộ tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản có quy định: “Toà án không tự ấn định trong bản án, quyết định thời điểm hoặc thời hạn bên có nghĩa vụ thi hành”. Do đó, việc bà H xin trả nợ cho bà U với hình thức mỗi tháng 500.000 đồng cho đến khi dứt nợ là không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về lãi suất: Nguyên đơn bà U không yêu cầu Tòa án tính lãi suất nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về trách nhiệm trả nợ: Theo bà H trình bày số tiền vay của bà U dùng vào mục đích trang trải học phí cho con, nên vợ chồng bà H, ông T phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ cho bà U.

Từ những nhận trên, Hội đồng xét xử thống nhất buộc vợ chồng ông T, bà H phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà U số tiền 23.000.000 đồng.

[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Vợ chồng bà H, ông T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 1.150.000 đồng (một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng). Tại phiên tòa, bà H có đơn xin giảm án phí do gia đình đang gặp khó khăn được UBND xã Minh Thuận xác nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 13, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí, Hội đồng xét xử thống nhất giảm cho vợ chồng bà H, ông T 50% tiền án phí phải nộp. Như vậy, vợ chồng bà H, ông T chỉ phải chịu tiền án phí là 575.000 đồng (năm trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

Bà U được nhận lại tiền tạm ứng án phí là 625.000 đồng (sáu trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004380 ngày 19/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 463, Điều 466 Bộ Luật dân sự 2015; khoản 2 Điều 27, khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 13, khoản 6 Điều 15, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án; Điều 92, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271, 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị U đối với bị đơn bà Nguyễn Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Bảo T về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

2. Buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị H, ông Trần Bảo T chịu trách nhiệm liên đới trả cho bà Lê Thị U số tiền 23.000.000 đồng (hai mươi ba triệu đồng).

3. Khi bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong số tiền phải thi hành án, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Vợ chồng bà H, ông T phải chịu tiền án là 1.150.000 đồng (một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng). Tuy nhiên, bà H có đơn xin giảm án phí do gia đình đang gặp khó khăn được UBND xã Minh Thuận xác nhận. Hội đồng xét xử chấp nhận giảm cho vợ chồng bà H, ông T 50% số tiền án phí phải nộp. Vợ chồng bà H, ông T chỉ phải chịu tiền án phí là 575.000 đồng (năm trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

Bà U được nhận lại tiền tạm ứng án phí là 625.000 đồng (sáu trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004380 ngày 19/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2019/DS-ST ngày 03/04/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:06/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh Thượng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;