Bản án 06/2018/HSST ngày 23/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 06/2018/HSST NGÀY 23/01/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T X , tỉnh T H  tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số: 79/2017/HSST ngày 29/12/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Đình T. Sinh năm 1992. STQ: Thôn C L, xã X T huyện T X,T H Dân tộc Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 6/12.Con ông Trịnh Đình T (đã chết) và bà Bùi Thị Tr. Bị cáo chưa có vợ và là con thứ 3 trong gia đình. Tiền  án, tiền sự: Không. Nhân thân: Năm 2012 bị Tòa án nhân dân huyện T X xử phạt 12 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/10/2017 đến nay, có mặt.

Người bị hại: Ông Lê Duy T, sinh năm: 1966 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn 5, xã T D, huyện T X ,T H .

Người liên quan: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1979 (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn M T 2, xã B, huyện T X , T H

Người làm chứng:

1, Chị Nguyễn Thị K , sinh năm: 1976 ( vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 5, xã T D , huyện T X , T  H

2, Anh Nguyễn Văn C , sinh năm: 1987( vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn 5, xã T D , huyện T X , T  H .

3, Anh Vũ Viết V , sinh năm: 1982 ( vắng mặt). Địa chỉ: Khu 2, Thị trấn L S huyện T X , T H 4, Anh Hoàng Minh H , sinh năm: 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn L S Thị trấn L S , huyện T X , T H .

5, Anh Nguyễn Anh T , sinh năm: 1983 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn M S 2, xã M S , huyện N L , T  H .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 28/9/2017 Trịnh Đình Th đi bộ đến nhà Nguyễn Văn C chơi. Khi đi qua nhà ông Lê Duy T quan sát thấy cửa cổng và cửa trong nhà ông T đều khóa. Đoán biết không có ai ở nhà nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản.T trèo qua tường rào sắt vào trong và đi đến cánh cửa ra vào bên trái theo hướng từ ngoài vào. Nhìn thấy cửa ra vào có hai cánh, bên trên có gắn kính mờ, thấy vậy T lấy 01 chiếc áo rách cuốn vào tay và dùng tay đấm vỡ 01 ô kính của cánh cửa. Sau đó T luồn tay qua ô kính bị vỡ rút chốt cửa và đi vào bên trong nhà anh Lê Duy T Khi vào bên trong nhà, T lục tìm trong chiếc tủ tường tại phòng khách nhưng không thấy tài sản gì có giá trị nên T đi vào trong phòng ngủ nhà anh T, nhìn thấy trên nóc chiếc tủ gỗ có 01 chiếc máy tính xách tay hiệu DELL để trong 01 chiếc túi màu đen. T lấy chiếc máy tính đi ra ngoài, khép cửa lại rồi T trèo qua đoạn tường rào đi về nhà Nguyễn Văn C T nhờ C đèo lên xã X B Khi đến cửa hàng của anh Nguyễn Văn Thắng, T bảo C dừng xe lại rồi một mình T mang chiếc máy tính vừa trộm cắp được gạ bán cho anh Nguyễn Văn T Anh T hỏi chiếc máy tính là của ai thì T nói là của T do cần tiền nên bán Anh Thắng trả 1.500.000đ thì Thêm nói là 1.700.000đ Anh Thắng đồng ý và lấy 1.700.000đ trả cho Thêm. Số tiền trên T đã chi tiêu cá nhân hết. Đến 20 giờ ngày 28/9/2017 Trịnh Đình T đã đến trụ sở Công an xã T D đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá số 42/BB-HĐĐG ngày 13/10/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự kết luận: Chiếc máy tính hiệu DELL trị giá  5.940.000đ (năm triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng).

Anh Nguyễn Văn T đã tự nguyện giao nộp chiếc máy tính mua của Thêm cho Cơ quan CSĐT Công an huyện T X và đề nghị Trịnh Đình T phải trả lại cho anh Thắng số tiền 1.700.000đ.

Người bị hại đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu gì thêm. Tại bản cáo trạng số 04/VKS-HS ngày 28/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T X đã truy tố bị cáo Trịnh Đình T về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị HĐXX:

Đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Trịnh Đình T phạm tội: Trộm cắp tài sản.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tuyên phạt bị cáo Trịnh Đình T từ 15 (mười lăm) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam.

Lời cuối cùng trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo Trịnh Đình T đề nghị HĐXX dành cho bị cáo mức án là 18 (mười tám) tháng tù để bị cáo có thêm thời gian cải tạo và cai nghiện ma túy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa hôm nay qua thẩm vấn công khai bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào chiều ngày 28/9/2017 Trịnh Đình T đã có hành vi đột nhập vào nhà anh Lê Duy T ở thôn 5, xã T D, huyện T Xuân, tỉnh T H trộm cắp 01 chiếc máy tính nhãn hiệu DELL có trị giá 5.940.000đ (năm triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo là lợi dụng sự sơ hở của người bị hại trong lúc vắng nhà nên đã nảy sinh và thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị án và an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Cáo trạng số 04/VKS-HS ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thọ Xuân truy tố bị cáo Trịnh Đình T về tội: Trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật..

[2]. Xét nhân thân bị cáo: Bị cáo có tuổi đời còn trẻ nhưng không chịu lao động chân chính. Nhân thân xấu: Năm 2012 bị cáo bị xử phạt 12 tháng tù cũng về tội: Trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không coi đó là bài học để sửa chữa lỗi lầm mà tiếp tục phạm tội. Do vậy cần tiếp tục cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo mình. Bản thân bị cáo đề nghị HĐXX dành cho mức án là 18 (mười tám) tháng tù. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên nguyện vọng của bị cáo được chấp nhận. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ là thật thà khai báo và sau khi phạm tội bị cáo đã đến Công an xã T D đầu thú được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh Nguyễn Văn T đã tự nguyện giao nộp chiếc máy tính mua của Tcho Cơ quan CSĐT Công an huyện T X và đề nghị Trịnh Đình T phải trả lại cho anh T số tiền 1.700.000đ. Xét yêu cầu của anh Thắng là có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ: Anh T mua chiếc máy tính do T bán nhưng không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên không bị xử lý về hình sự. Cần buộc bị cáo Trịnh Đình T phải trả cho anh Nguyễn Văn T số tiền 1.700.000đ.

Đối với Nguyễn Văn C đã đèo Trịnh Đình T đi tiêu thụ chiếc máy tính nhưng C không biết chiếc máy tính là do Thêm trộm cắp mà có, hơn nữa khi T nhờ C đưa lên xã X B, T không nói cho C biết mục đích là đi đâu nên C không bị xử lý pháp luật.

Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí HSST và án phí DSST. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:  Bị cáo Trịnh Đình T phạm tội: Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Trịnh Đình T 18 (mười tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31 tháng 10 năm 2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật Hình sự năm 1999. Buộc bị cáo TrịnhĐình T phải trả cho anh Nguyễn Văn T số tiền 1.700.000đ (một triệu bảy trăm nghìn đồng). Áp dụng khoản 2 Điều 136 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015;điểm a khoản 1 Điều 23; điểm a khoản 1 Điều 24 Nghị quyết 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Trịnh Đình T phải nộp 200.000đ án phí HSST và 300.000d án phí DSST.

Áp dụng Điều 331; Điều 333 BLTTHS 2015 bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, người liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2018/HSST ngày 23/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;