TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO YÊN, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 06/2018/HSST NGÀY 11/04/2018 VỀ TRỘM CĂP TÀI SẢN VÀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 11 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2018/TLST - HS, ngày 02/3/2018 đối với các bị cáo:
1. Đàm Văn H (tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 03/02/2001 tại Bảo Thắng - Lào Cai; Nơi cư trú: thôn Quyết Tâm, xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đàm Văn Giàng và bà Lê Thị Phúc; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: bị cáo có 03 tiền sự (ngày 23/11/2016 bị Công an thị trấn Phố Lu, Bảo Thắng, Lào Cai xử phạt cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản; ngày 11/01/2017 bị Công an thị trấn Phố Lu, Bảo Thắng, Lào Cai xử phạt cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản; ngày 20/01/2017 bị UBND xã Thái Niên, Bảo Thắng, Lào Cai áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,thị trấn về hành vi trộm cắp tài sản xảy ra ngày 08/01/2017); bị bắt tạm giữ ngày 05/02/2018, tạm giam ngày 08/02/2018. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai - có mặt.
2. Đặng Hữu H (tên gọi khác: Không) - sinh ngày 18/10/1997 tại Văn Yên - Yên Bái; Nơi cư trú: Bản Bông 3, xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Kim Quý và bà Bàn Thị Nhất; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại Bản Bông 3, xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai - có mặt.
- Người đại diện cho bị cáo Đàm Văn H: bà Lê Thị Phúc (mẹ của bị cáo), sinh năm 1965, trú tại: thôn Quyết Tâm, xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai - có mặt.
- Người bào chữa cho các bị cáo Đàm Văn H, Đặng Hữu H: ông Nguyễn Ngọc Hoạt, trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai - có mặt.
- Bị hại: anh Đỗ Minh Quý, sinh năm 1987, trú tại: Bản Lâm Sản, xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai - vắng mặt.
- Người có quyền lợi liên quan: anh Trần Minh Tuấn, sinh năm 1992, trú tại: Bản Ngầm Thỉn, xã Tân Thượng, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai - vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ ngày 13/9/2017 Đàm Văn H đi xe máy từ Ga Bảo Hà theo đường Quốc lộ 279 ra cầu Bảo Hà chơi. Khi đi đến bản Lâm Sản, xã Bảo Hà thấy ngôi nhà 04 tầng đang xây dựng giáp tường nhà anh Đỗ Minh Quý. H liền nảy sinh ý định đi lên tầng 4 ngôi nhà để trèo sang nhà anh Quý trộm cắp tài sản. H dựng xe máy cạnh lề đường đi lên tầng 4 rồi trèo sang nhà anh Quý, sau đó H chui qua cửa sổ đi theo đường cầu thang xuống tầng 2, thấy có ánh điện trong ngủ ở phòng cuối hành lang, H đi lại gần thấy cửa phòng mở, trong phòng có một người đàn ông ngủ trên giường, H dùng tay sờ theo tường nhà để đi vào trong phòng thì sờ thấy một chiếc ví trên tủ kê cạnh cửa. H cầm chiếc ví ra cầu thang kiểm tra thấy không có tiền nên vứt ở cầu thang. Xong H đi bộ xuống tầng 1 thấy trong phòng cuối hành lang có một người đàn ông đang ngủ, H đi vào phòng thấy đèn điện sáng, trên bàn cạnh đầu giường có 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000đ và 60 tờ tiền mệnh giá 1.000đ H liền lấy hết 63 tờ tiền đút vào túi quan bên pH. Xong H tiếp tục rút chiếc điện thoại Iphone 7 mầu hồng đang cắm sạc ở đầu giường cầm trên tay bật đèn pin điện thoại để quay lại đường cũ ra ngoài lấy xe máy đi về ga Bảo Hà. Đến sáng ngày 13/9/2017 H đi xe máy ra quán Internet ở xã Bảo Hà thì gặp Đặng Hữu H - sinh năm 1997 ở Bản Bông 3, xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên đang chơi điện tử. H cùng H chơi ở quán điện tử đến khoảng 10 giờ cùng ngày H chở H về nhà H chơi. Khi xuống xe H mở cốp lấy điện thoại vừa trộm cắp ra cầm trên tay, thấy vậy H hỏi "Điện thoại của ai đấy?", H chưa kịp trả lời thì H nói tiếp "Con này mang bán lấy tiền chơi", thì H nói "máy này máy nhảy chỉ bán linh kiện thôi" ý H nói là điện thoại trộm cắp. Xong cả hai đi vào nhà H ngồi uống nước, H nói với H "Tý ra ngoài anh bán con này hộ em", mặc dù biết là điện thoại do trộm cắp mà có, xong H vẫn đồng ý và ngồi sau xe H chở đi tìm quán bán điện thoại. Trên đường đi H tiếp tục hỏi "Thực ra điện thoại này của ai?", H trả lời "Điện thoại của thằng em, nó nhảy dưới Yên Bái, nó nhờ em bán hộ". Khi đến quán điện thoại nhà anh Trần Tuấn Anh, ở xã Tân Thượng, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. H dừng xe đứng ngoài, còn H cầm điện thoại đi bộ vào trong quán hỏi "Anh phá khóa điện thoại bao nhiêu tiền?" thì anh Trần Tuấn Anh hỏi lại "Máy này là máy mình hay máy ai mà không có mật khẩu", H nói "máy này thằng bạn em ở yên bái nhặt được gửi lên", thấy vậy anh Tuấn Anh nói "Máy không rõ nguồn gốc nên không mua", H liền hỏi "Anh cho em cắm được không", anh Tuấn Anh đồng ý và đưa cho H 600.000đ. H cầm tiền ra đưa cho H rồi cùng nhau đi chơi điện tử. Số tiền 600.000đ cắm điện thoại H dùng trả tiền chơi điện tử và chi tiêu cá nhân hết, đến ngày 20/9/2017 H đến Đồn Công an xã Bảo Hà đầu thú và khai nhận khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Ngày 25/9/2017 Công an huyện Bảo Yên ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản đối với chiếc điện thoại Iphone 7 mầu hồng mà bị cáo đã trộm cắp của anh Đỗ Minh Quý. Tại bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG ngày 27/9/2017, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bảo Yên, kết luận: 01 điện thoại Iphone 7 mầu hồng đã qua sử dụng từ tháng 6/2017 trị giá 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng chẵn).
Bản cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 27/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên đã truy tố bị cáo Đàm Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; truy tố bị cáo Đặng Hữu H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đàm Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Đặng Hữu H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 68; Điều 69; khoản 4 Điều 71; khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Đàm Văn H từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 250; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Đặng Hữu H từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và tuyên thời gian thử thách theo quy định. Về dân sự và vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật. Không phạt bổ sung đối với các bị cáo; tuyên án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ý kiến người bào chữa cho các bị cáo Đàm Văn H, Đặng Hữu H: Nhất trí về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo đó là: Đối với bị cáo H: Phạm tội gây hậu thiệt hại không lớn, có thái độ H khẩn khai nhận tội và bị cáo H sau khi phạm tội bị cáo đã ra cơ quan công an đầu thú, tài sản đã được trả lại cho bị hại, bị cáo H là người chưa H niên nên nhận thức phạm luật còn hạn chế, do đó Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các quy định về nguyên tắc xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại Điều 69, Điều 74 Bộ luật hình sự năm 1999 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo H 06 tháng tù. Đối với bị cáo Đặng Hữu H có các tình tiết giảm nhẹ: Phạm tội gây hậu thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có thái độ H khẩn khai nhận tội; bị cáo có ông nội là ông Đặng Văn Bảo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, bị cáo là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật còn hạn chế và tài sản đã được trả lại cho bị hại; bị cáo luôn chấp hành tốt pháp luật và nghĩa vụ công dân tại nơi cư trú. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 250; điểm g, h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 phạt bị cáo 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục. Các bị cáo đều không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Sau khi kết thúc phần tranh luận, các bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để các bị cáo có cơ hội cải tạo H công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Yên, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Yên, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đảm bảo đúng quy định pháp luật.
[2] Về xác định tội phạm và áp dụng pháp luật: Ngày 13/9/2017 Đàm Văn H đã lén lút trộm cắp tài sản của anh Đỗ Minh Quý số tiền 260.000đ và 01 chiếc điện thoại Iphone 7 mầu hồng trị giá 12.000.000đ. Sau đó Đàm Văn H rủ Đặng Hữu H đi cầm cố chiếc điện thoại tại quán nhà anh Trần Tuấn Anh được 600.000đ. Số tiền này các bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết. Đến ngày 20/9/2017 Đàm Văn H đến Đồn Công an xã Bảo Hà đầu thú và khai nhận khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất và phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận định giá, biên bản ghi lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng như các lời khai khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Đàm Văn H đủ yếu tố cấu H tội “Trộm cắp tài sản” và hành vi của bị cáo Đặng Hữu H đủ yếu tố cấu H tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai truy tố đối với các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Do đó, Tòa xét thấy cần pH xét xử nghiêm minh đối với các bị cáo để răn đe, phòng ngừa chung.
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ: Đối với bị cáo Đàm Văn H có các tình tiết giảm nhẹ: phạm tội gây hậu thiệt hại không lớn, có thái độ H khẩn khai nhận tội và sau khi phạm tội bị cáo đã ra cơ quan công an đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngoài ra khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người chưa H niên nên nhận thức phạm luật còn hạn chế, do đó Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các quy định về nguyên tắc xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại Điều 68, Điều 69, khoản 4 Điều 71, khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự năm 1999 là phù hợp. Song xét về nhân thân: Bị cáo Đàm Văn H có 03 tiền sự - bị xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, hơn nữa ngoài vụ án này Đàm Văn H còn khai nhận vào tháng 8/2017 bị cáo trộm cắp 02 chiếc xe máy tại huyện Bảo Thắng và trộm cắp 04 chiếc xe máy tại H phố Lào Cai, các vụ án này cơ quan tiến hành tố tụng huyện Bảo Thắng và H phố Lào Cai đang thụ lý giải quyết theo thẩm quyền. Điều này thể hiện bị cáo tuy tuổi đời còn trẻ nhưng ý thức coi thường pháp luật, Tòa xét thấy cần phải cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới có tác dụng giáo dục, răn đe và cải tạo bị cáo H người công dân có ích cho xã hội.
Đối với bị cáo Đặng Hữu H có các tình tiết giảm nhẹ: phạm tội gây hậu thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có thái độ H khẩn khai nhận tội; bị cáo có ông nội là ông Đặng Văn Bảo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm g, h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo có nhân thân tốt, lý lịch rõ ràng, trước khi phạm tội bị cáo luôn chấp hành tôt pháp luật và nghĩa vụ công dân tại địa phương, quá trình thi hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú bị cáo luôn chấp hành nghiêm chỉnh, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng cao nên nhận thức pháp luật còn có hạn chế, gia đình bị cáo có 4 anh em nhưng hiện nay chỉ có H và em gái bị cáo sinh sống cùng bố mẹ, hoàn cảnh còn nhiều khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết pH cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, xử bị cáo phạt tù cho hưởng án treo và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú quản lý, giáo dục cũng đảm bảo tính răn đe và phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, các bị cáo còn có thể pH chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo không có thu nhập và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Đỗ Minh Quý không có đề nghị gì nên Tòa không xem xét. Đối với anh Trần Tuấn Anh không biết chiếc điện thoại do trộm cắp mà có nên đã nhận cầm cố số tiền 600.000đ, tuy nhiên quá trình điều tra anh Trần Tuấn Anh cho các bị cáo số tiền trên và không đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về vật chứng: 01 chiếc điện thoại Iphone 7 cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại là anh Đỗ Minh Quý; đối với số tiền 260.000đ bị cáo H đã tiêu sài hết. Đây là số tiền do bị cáo phạm tội mà có do đó cần truy thu để tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Trong vụ án này, có anh Trần Tuấn Anh đã cầm cố chiếc điện thoại của các bị cáo, trong quá trình điều tra cho thấy khi cầm cố điện thoại anh Trần Tuấn Anh không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có, nên hành vi của anh Trần Tuấn Anh không cấu H tội phạm, cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đàm Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Đặng Hữu H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
1. Về hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 68, Điều 69, khoản 4 Điều 71, khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Đàm Văn H 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/02/2018.
- Áp dụng khoản 1 Điều 250; điểm g, h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo Đặng Hữu H 08 (Tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 16 (Mười sáu) tháng tính từ ngày tuyên án 11/4/2018. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
2. Về vật chứng:
Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 truy thu để tịch thu số tiền 260.000đ của bị cáo Đàm Văn H để sung quỹ Nhà nước.
3. Về án phí:
Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án buộc các bị cáo Đàm Văn H, Đặng Hữu H mỗi bị cáo pH nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các bị cáo, người bào chữa cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án.
Bản án 06/2018/HS-ST ngày 11/04/2018 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 06/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/04/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về