TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 06/2017/HSST NGÀY 30/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 10 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2017/HSST ngày 03 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Lò Văn D; Tên gọi khác: Không; SN: 1966; nơi cư trú: Bản T, xã T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 7/10; Con ông: Lò Văn T ( Đã chết ) và bà Lò Thị Â ( Đã chết); bị cáo có vợ là: Lường Thị X – SN: 1972 ( Không đăng ký kết hôn ) và có 05 con ( Lớn nhất 28 tuổi, nhỏ nhất 15 tuổi ); tiền sự: Không. Tiền án: Tại bản án số: 111/2008/HSST ngày 24/7/2008 của tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đã xử phạt bị cáo Lò Văn D 9 năm 6 tháng tù về các tội: Mua bán trái phép chất ma túy và tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Trong vụ án này, bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 10/8/2017 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 16 giờ 40 phút ngày 10/8/2017, tại khu vực bản Long Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đã phát hiện bắt quả tang đối tượng Lò Văn D ( SN: 1966, trú tại: Bản T, xã T, huyện Thuận Châu ) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vật chứng thu giữ gồm:
- 02 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng ( Theo đối tượng D khai là Heroin );
- 01 chiếc ví da màu đen, mặt ngoài có dòng chữ CHICAGO.
Kết quả cân tịnh số bột màu trắng thu giữ của đối tượng D, có trọng lượng 0,25 gam, rút 0,05 gam ký hiệu D1 làm mẫu vật gửi giám định, số còn lại là 0,20 gam ký hiệu D2 đã niêm phong.
Tại bản Kết luận giám định số: 819/KLMT ngày 16/8/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu chất bột màu trắng ký hiệu D1 gửi giám định là chất ma túy; Loại chất Heroin; trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,25 gam loại chất Heroin.
Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, bị can Lò Văn D đã khai nhận như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 10/8/2017, Lò Văn D đi bộ từ nhà mình ( Bản T, xã T ) đến bản L, xã T, huyện Thuận Châu, để tìm mua ma túy sử dụng cho bản Thân. Khi tới bản L, D gặp và mua được của một người phụ nữ dân tộc Thái ( Không biết tên, tuổi, địa chỉ ) 02 gói Heroin, được gói bằng nilon màu trắng, với giá 80.000đ ( Tám mươi ngàn đồng ), D cất 02 gói Heroin vào trong ví da và để trong túi quần sooc đang mặc, trên đường đi bộ trở về nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, phát hiện bắt giữ cùng vật chứng là 02 gói Heroin như đã nêu ở trên.
Tại bản Cáo trạng số: 153/KSĐT ngày 03/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Lò Văn D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự;
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn D, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194 - điểm p khoản 1 Điều 46 – điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 - điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;
- Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 24 đến 30 tháng tù.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.
Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: Vật chứng là 0,20 gam Heroin ( Số còn lại sau khi trích rút 0,05 gam gửi giám định ) và 01 chiếc ví da bị cáo sử dụng cất dấu 02 gói Heroin.
Tại phiên tòa bị cáo ( D ) có ý kiến: Thừa nhận ngày 10/8/2017 do bản thân nghiện ma túy nên đã tìm mua ma túy về sử dụng và bị phát hiện bắt quả tang như bản Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Nay đã biết tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về nội dung: Ngày 10/8/2017, bị cáo Lò Văn D ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý ( 0,25 gam Heroin ) với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn D đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại Điều 194 BLHS năm 1999 quy định:
“ 1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi; Hành vi các bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Cụ thể hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước hết xâm hại đến chính sức khỏe của các bị cáo, sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển . . . trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương. Tội phạm các bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo các bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội. Vận dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật về tội phạm và hình phạt.
[4] Tình tiết tăng nặng: Bản thân bị cáo đã từng bị kết án 9 năm 6 tháng tù về các tội: Mua bán trái phép chất ma túy và Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma
túy chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội mới. Là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “ Tái phạm ”, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS.
[5] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn. Nên được áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS.
[6] Xét tội tội danh bị cáo đang bị xét xử ( Tàng trữ trái phép chất ma túy )thuộc trường hợp quy định tại: Nghị quyết số: 41/2017/QH14 của Quốc hội; Khoản 3 Điều 7 - điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015; theo hướng xét xử có lợi cho bị cáo bởi: So sánh mức hình phạt về cùng tội danh theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 ( Từ 02 năm đến 07 năm tù ) với điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 ( Từ 01 năm đến 05 năm tù ), thì mức hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, là có lợi cho người phạm tội. Do vậy cần áp dụng các quy định pháp luật đã viện dẫn ở trên đối với bị cáo.
[7] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự.
[8] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 194 BLHS. Căn cứ vào kết quả xác minh xác định bị cáo không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng.
[9] Xử lý vật chứng:
- Vật chứng là 0,20 gam Heroin ( Số còn lại sau khi trích rút 0,05 gam gửi giám định ) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo đồng thời là vật nhà nước cấm lưu hành. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS; để tuyên tịch thu tiêu hủy.
- Vật chứng là 01 chiếc ví da, bị cáo sử dụng cất dấu ma túy. Cần áp dụng các điểm a, đ khoản 2 Điều 76 BLTTHS; để tuyên tịch thu tiêu hủy.
[10] Đối với nguồn gốc 0,25 gam Heroin bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của một người phụ nữ không quen biết tại bản Long Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Quá trình điều tra do bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của đối tượng. Do vậy cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ.
[11] Bị cáo thuộc hộ gia đình nghèo. Do đó cùng được miễn toàn bộ án phíhình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
[12] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 231, 234 Bộ luật tố tụng hình sự;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
2. Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 194 - điểm p khoản 1 Điều 46 – điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 - điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;
- Xử phạt bị cáo Lò Văn D 28 ( Hai mươi tám ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 10/8/2017 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).
* Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.
3. Xử lý vật chứng:
Áp dụng các điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tuyên tịch thu tiêu huỷ:
+ Chất bột Heroin trọng lượng: 0,20 gam ( Không phẩy hai mươi gam ), ký hiệu D2, được niêm phong trong phong bì thư;
+ 01 ví da màu đen, bên ngoài có ghi dòng chữ CHICAGO, đã qua sử dụng cũ.
4. Án phí:
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
5. Quyền kháng cáo:
Áp dụng các Điều 231, 234 Bộ luật tố tụng hình sự;
Báo cho bị cáo biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 06/2017/HSST ngày 30/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 06/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/10/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về