TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 05/2024/HS-ST NGÀY 19/03/2024 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Trong ngày 19 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 06/2024/TLST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2024/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Xuân T; Tên gọi khác: không; Giới tính: nam; Sinh ngày 12 tháng 10 năm 1987, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm T, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Họ tên cha: Nguyễn Văn S, sinh năm 1950; Họ tên mẹ: Hồ Thị N; đã chết; Vợ: Hồ Thị X; Sinh năm 1993 (đã ly hôn); Con: 03 người, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/11/2023 tại nhà tạm giữ Công an thị xã H đến nay; có mặt.
Người bị hại: Cháu Hồ Thị G, sinh ngày 29/4/2008, vắng mặt.
Nơi cư trú: Xóm T, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.
Người đại diện cho bị hại: Bà Lê Thị H, sinh năm 1974, có mặt.
Nơi cư trú: Xóm T, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Nguyễn Thị T1, Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh N; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Xuân T và cháu Hồ Thị G (sinh ngày 29/4/ 2008, trú tại xóm T, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An) quen biết và nảy sinh tình cảm nam nữ với nhau vào khoảng đầu năm 2023. Vào khoảng 8 giờ 30 phút, ngày 12/11/2023 Nguyễn Xuân T đang làm việc thì cháu Hồ Thị G, nhắn tin cho T với nội dung “Giờ anh ra hồ đi” thì T trả lời có nhiều người không ra được. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, cháu G tiếp tục nhắn tin cho T nói “Giờ em ra hồ”, vì đang bận nên T không nhắn tin lại. Khoảng 11 giờ, sau khi xong công việc, T cùng với bạn Nguyễn Bá C (sinh năm 1987, trú tại xóm B, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An) đi bắt cá ngoài đồng rồi mang về nhà T nấu ăn cùng với nhau. Sau đó, C rủ T đến quán nhậu tại xã Q, huyện Q để uống bia tiếp thì T đi xe máy chở theo con là Nguyễn Xuân P đi đến ngồi ăn uống cùng. Đến khoảng 17 giờ 30 phút, T lái xe chở con về nhà rồi nằm ngủ trên chiếc võng ngoài sân, cạnh gần đường dân sinh. Khoảng 18 giờ 45 phút, cùng ngày, T ngủ dậy nằm hút thuốc thì thấy cháu G đi xe đạp điện qua cổng nhà, biết giờ này cháu G thường đi ra ngoài hồ tôm để cho chó ăn cơm nên T lấy xe máy đi theo cháu G ra hồ nuôi tôm tại khối F, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An. Khi đến nhà chòi canh hồ tôm, T thấy cháu G đang đứng trong gian chòi có chiếc giường ngủ. Lúc này, T đi vào nhà và hỏi cháu G “Em có nhớ anh không”, cháu G trả lời “Có”. T nói tiếp “Anh yêu em nhiều lắm vợ ơi”. Sau đó, T ôm hôn cháu G thì cháu G không phản ứng gì mà ôm hôn lại T. Sau đó, T và cháu G cùng lên giường, Trọng hôn và sờ ngực cháu G, cháu G nằm ngửa, còn T đứng dưới nền nhà dùng tay kéo chiếc quần đùi và quần lót của cháu G ra bỏ vào góc giường, rồi tự cởi quần đùi và quần lót của mình. Sau đó, cháu G dạng hai chân ra, T ngồi quỳ xuống giường ép sát vào giữa hai chân của cháu G, rồi đưa dương vật của mình vào âm đạo của cháu G rồi bắt đầu đút ra, đút vào nhiều lần, được khoảng 02 phút sau, T thấy gần xuất tinh nên rút dương vật ra khỏi âm đạo của cháu G, lấy chiếc quần đùi của mình bịt lại dương vật để xuất tinh vào quần của mình. Sau khi quan hệ tình dục xong, T nói với cháu G “Về nhớ rửa rồi mai anh mua thuốc cho mà uống”. Sau đó, Trọng hôn vào má cháu G rồi ra về. Khi T đi xe máy từ chòi canh hồ nuôi tôm của gia đình cháu G ra về được khoảng hơn 100 mét thì gặp mẹ cháu G là chị Lê Thị H (sinh năm 1974, trú tại xóm T, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An) đi ngược chiều vào chòi. Chị Lê Thị H sau khi thấy T đi từ chòi canh tôm của mình ra thì nghi ngờ nên gặng hỏi cháu Hồ Thị G, sau khi biết sự việc thì chị H đã trình báo cơ quan công an.
Sau khi về nhà, T tắm rửa rồi đi xe máy chở con trai Nguyễn Xuân P đi vào nhà Hồ Hữu D (sinh năm 1992, trú tại xóm T, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An) để uống rượu. Sau khi biết việc quan hệ tình dục với cháu G đã bị phát hiện thì T đi xe máy chở cháu P từ nhà Hồ Hữu D về rồi đi đến nhà Đậu Đức M (sinh năm 1993, trú tại khối A, phường Q, thị xã H) tỉnh Nghệ An vay 800.000 đồng và nhờ M lái xe chở mình đến ngã tư phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An rồi bắt xe khách đi vào tỉnh Kiên Giang trốn. Đến ngày 20/11/2023 Nguyễn Xuân T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H xin đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Cơ quan CSĐT Công an thị xã H đã tiến hành khám nghiệm hiện trường vụ việc, thu giữ 01 sợi lông, tóc tại hiện trường, đã tiến hành trưng cầu giám định AND đối với sợi nghi lông, tóc đã thu giữ. Tại Bản Kết luận giám định số: 9480/KL- KTHS ngày 05/01/2024 của V - Bộ C1 kết luận: Sợi nghi lông, tóc người ghi thu tại hiện trường là lông, tóc người và là lông, tóc của Nguyễn Xuân T.
Cơ quan CSĐT Công an thị xã H đã trưng cầu giám định xâm hại tình dục đối với cháu Hồ Thị G. Tại bản kết luận giám định xâm hại tình dục ở trẻ em số: 62/KLTDT/TTPY ngày 13 tháng 11 năm 2023 của Trung tâm pháp y tỉnh N kết luận:
- Trên cơ thể Hồ Thị G hiện tại không có dấu vết tổn thương.
- Màng trinh hình viền, còn nguyên vẹn, chưa rách. Lỗ màng trinh giãn rộng.
- Các bộ phận sinh dục khác của Hồ Thị G hiện tại không có dấu vết bị tổn thương.
- Hiện tại không tìm thấy tinh trùng trong dịch âm đạo của Hồ Thị G.
Cáo trạng số 09/CT-VKSHM, ngày 20 tháng 02 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1, Điều 145 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Đề nghị: Áp dụng khoản 1, Điều 145; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đề nghị xử phạt Nguyễn Xuân T từ 18 đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 20/11/2023.
Về vật chứng vụ án và tài sản liên quan: Không.
Về bồi thường trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà bà Lê Thị H đại diện cho bị hại cháu Hồ Thị G yêu cầu bị cáo Nguyễn Xuân T bồi thường tiền khám, tiền thuốc là 1.000.000đ, tiền bồi dưỡng sức khoẻ 7.500.000đ, tiền mất thu nhập của mẹ bị hại 2.100.000đ, tiền tổn thất tinh thần là 40.000.000đ, tổng cộng là 50.600.0000đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo, bị hại phù hợp với thời gian, địa điểm, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Do có tình cảm nam nữ với nhau từ trước nên vào khoảng 18 giờ 45 phút ngày 12/11/2023, tại chòi canh tôm của gia đình chị Lê Thị H ở khối F, phường Q, thị xã H, Nguyễn Xuân T đã có hành vi giao cấu với cháu Hồ Thị G thì được cháu G đồng ý, thời điểm này cháu G mới chỉ có 15 tuổi 06 tháng 13 ngày.
[3] Quá trình phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được mặc dù việc quan hệ tình dục là sự đồng thuận của cả hai, không bên nào ép buộc bên nào. Nhưng hành vi của bị cáo đã xâm hại đến sự phát triển bình thường về mặt tình dục đối với người chưa đủ 16 tuổi. Mục đích của bị cáo là lợi dụng sự non nớt về nhận thức của các bị hại để thỏa mãn nhu cầu tình dục của bản thân nên cần phải bị xử lý hình sự. Ngoài ra hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương.
Hành vi của bị cáo thực hiện nêu trên có đủ căn cứ kết luận Nguyễn Xuân T phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại khoản 1, Điều 145 Bộ luật hình sự như Cáo trạng quy kết là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến nhân phẩm của phụ nữ được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến trật tự, trị an ở địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra. Bởi vậy, căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội cần thiết phải xử phạt nghiêm khắc bằng hình phạt tù, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện để răn đe giáo dục người phạm tội nói riêng cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung.
[5] Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đầu thú;
bị cáo có thời gian tham gia trong quân ngũ từ năm 2006 đến năm 2008; bố bị cáo được tặng kỷ niệm chương cựu chiến binh Việt Nam được quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn đã ly hôn vợ hiện nay đang nuôi 02 con nhỏ và nuôi bố già yếu. Do đó, cần giảm nhẹ một phần hình phạt để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt. Vì vậy, xử phạt bị cáo mức như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
[6] Về vật chứng vụ án và tài sản liên quan: Không.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà bà Lê Thị H đại diện cho bị hại cháu Hồ Thị G yêu cầu bị cáo Nguyễn Xuân T bồi thường tiền khám, tiền thuốc là 1.000.000đ, tiền bồi dưỡng sức khoẻ 7.500.000đ, tiền mất thu nhập của mẹ bị hại 2.100.000đ, tiền tổn thất tinh thần là 40.000.000đ, tổng cộng là 50.600.0000đ. Tại phiên toà bị cáo T cũng nhất trí bồi thường như yêu cầu của đại diện bị hại bà Lê Thị H. Vì vậy cần ghi nhận sự thoả thuận của bị cáo và đại diện bị hại nên cần buộc bị cáo bồi thường cho bị hại cháu Hồ Thị G số tiền là 50.600.000đ (Năm mươi triệu sáu trăm nghìn đồng).
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1, Điều 145, điểm s, khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Nguyễn Xuân T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 20/11/2023. Về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 590, Điều 592 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Xuân T bồi thường cho bị hại cháu Hồ Thị G số tiền là 50.600.000đ (Năm mươi triệu sáu trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban T2; Buộc bị cáo Nguyễn Xuân T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Buộc bị cáo Nguyễn Xuân T phải chịu 2.530.000đ (Hai triệu năm trăm ba mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, đại diện cho bị hại có mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được được bản sao bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 05/2024/HS-ST về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Số hiệu: | 05/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về