Bản án 05/2024/HS-ST về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 05/2024/HS-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ TỘI CHỨA CHẤP SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CưM’gar xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2024/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê L; Sinh năm 1991; tại tỉnh Đắk Lắk.

Nơi cư trú: Tổ dân phố 1, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê N (đã chết) và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1969; bị cáo chưa có vợ con. Tiền án: Không; tiền sự: 01, ngày 15/8/2021 bị Ủy ban nhân dân thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’gar ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn số 10/QĐ-UBND về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 15/11/2021, Ủy ban nhân dân thị trấn Quảng Phú cấp Giấy chứng nhận số 47/GCN-UBND về việc đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, thị trấn.

Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 23/9/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cư M’gar, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Phan Phước T; Sinh năm 2001; tại tỉnh Gia Lai.

Nơi cư trú: Tổ dân phố 5, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Phước Đ, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị Diễm O, sinh năm 1982; bị cáo chưa có vợ con. Tiền án:

Không; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 23/9/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cư M’gar, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Huỳnh Ngọc Hoài N, sinh năm 1998 (Có mặt) Địa chỉ: 03 B, tổ dân phố 7, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

2. Ông Phan Phước Đ, sinh năm 1978 (Có mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố 5, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

3. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1969 (Có mặt) Địa chỉ: 12 H, tổ dân phố 1, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

* Người làm chứng:

1. Anh Mai Xuân T1 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn TP, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

2. Ông Lương Thái (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 22/9/2023, Phan Phước T điều khiển xe mô tô biển số 47H1-808.xx đi từ nhà của mình đến nhà Huỳnh Ngọc Hoài N để rủ N đi lên thành phố B để mua ma túy về sử dụng thì N đồng ý. Sau đó, Phan Phước T chở N đi lên thành phố B để mua ma túy, khi đi đến đoạn đường Phan Bội Châu, thành phố B, T nói N xuống xe và đứng chờ để T một mình đi mua ma túy. Sau đó, T điều khiển xe mô tô 47H1-808.xx đi đến bến xe phía Nam, thành phố B. Tại đây, T gặp một nam thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch), T hỏi người này có biết ai bán ma túy không. Người nam thanh niên hỏi T mua loại gì, T trả lời mua ma túy đá, người này tiếp tục hỏi T mua bao nhiêu, T trả lời mua 1.000.000 đồng (là tiền riêng của Phan Phước T). Sau đó, T đưa tiền cho người nam thanh niên, người nam thanh niên nhận tiền và nói T đứng chờ. Một lúc sau, người nam thanh niên quay lại và đưa cho T 01 gói nylon bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể là ma túy đá. T cầm gói nylon có chứa ma túy và điều khiển xe mô tô 47H1-808.xx đi về đoạn đường Phan Bội Châu, thành phố B để đón N. Sau đó, T chở N về nhà của Lê L. Khi đến nhà L, do nhà không khóa cửa và L không có ở nhà nên T và N đi vào phòng ngủ của L. Tại đây, Huỳnh Ngọc Hoài N đi vệ sinh còn T lấy điện thoại của mình gọi cho Mai Xuân T1 (là bạn của L) và nói T1 cho T gặp L. Sau khi T1 đưa điện thoại cho L, T nói với L là “chú đang ở đâu, chạy về nhà chơi, cháu đang ở nhà chú”, L nói “đợi chú chạy về”. T phát hiện trong phòng ngủ của L có một bộ dụng cụ để sử dụng ma túy, T lấy ma tuy đã mua được đổ một ít vào nỏ để sử dụng. Số ma túy còn lại trong gói nylon thì T dùng bật lửa hàn gói nylon lại và cầm trên tay phải để cất đi sau này sử dụng. Khi T và N đang sử dụng ma túy trong phòng của L thì L đi về nhìn thấy nhưng không nói gì và cùng vào sử dụng ma túy. L tự châm lửa để hít ma túy, L hít được 04 hơi thì đưa cho N, N sử dụng xong thì đưa cho T. Ngay khi T vừa dùng xong thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar phát hiện. Lúc này T ném 01 gói nylon kích thước khoảng (3,5 x 03)cm, bên trong có chưa chất rắn dạng tinh thể là ma túy đá mà T đang cầm trên tay phải xuống nền nhà. Cơ quan Công an huyện Cư M’gar đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy; đồng thời thu giữ vật chứng liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 1190/KL-KTHS ngày 28/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể bên trong 01 (một) gói nylon kích thước (3,5 x 03)cm được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 0,7239 gam, loại Methamphetamine.

Tại phiếu kết quả xét Nệm ngày 22/9/2023 của Trung tâm y tế huyện Cư M’gar kết quả: Lê L, Phan Phước T và Huỳnh Ngọc Hoài N dương tính với chất ma túy, loại Methamphetamine.

Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar thu giữ 01 (một) gói nylon có kích thước (3,5 x 03)cm bên trong có chứa 0,7239 gam ma túy, loại Methamphetamine; 01 chai nhựa có nắp đậy màu trắng được đục hai lỗ; 01 ống thủy tinh; 01 ống nhựa màu xanh – trắng; 01 quẹt ga màu đỏ; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro, màu xám, số IMEI1 351194960258073; số IMEI2 351194960402796 gắn thẻ sim số 03839197xx; 01 xe mô tô biển số 47H1-808.xx, nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu xanh, số khung RLHJA392PY540766, số máy JA39E-3179449.

Bản cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 01 tháng 02 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar truy tố bị cáo Phan Phước T về Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự và Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Lê L về Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lê L, Phan Phước T thừa nhận hành vi phạm tội: ngày 22/9/2023 bị cáo T mua ma túy tại thành phố B, sau đó T chở N đến nhà L, tại phòng ngủ của L, T lấy một ít ma túy bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy để cho L, N, T cùng nhau sử dụng, số ma túy còn lại T cầm trên tay để sau này sử dụng. Bị cáo L thấy T, N sử dụng ma túy trong phòng ngủ nhà L nhưng không có ý kiến gì và cùng sử dụng ma túy với T, N.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo; đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Phan Phước T, Lê L như nội dung cáo trạng và đưa ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Tuyên phạt bị cáo Phan Phước T từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Tuyên phạt bị cáo Phan Phước T từ 12 đến 15 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt của hai tội, hình phạt chung buộc bị cáo Phan Phước T phải chấp hành từ 08 năm đến 08 năm 09 tháng tù.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Tuyên phạt bị cáo Lê L từ 07 năm đến 08 năm tù về Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

- Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,6931 gam ma túy, loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định; 01 chai nhựa có nắp đậy màu trắng được đục hai lỗ; 01 ống thủy tinh; 01 ống nhựa màu xanh – trắng; 01 quẹt ga màu đỏ; tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro, màu xám, số IMEI1 351194960258073; số IMEI2 351194960402796 gắn thẻ sim số 03839197xx; chấp nhận việc Cơ quan điều tra trả lại 01 xe mô tô biển số 47H1- 808.xx, nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu xanh, số khung RLHJA392PY540766, số máy JA39E-3179449 cho ông Phan Phước Đ là chủ sở hữu hợp pháp.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CưM’gar, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 22/9/2023 tại Tổ dân phố 1, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Lê L có hành vi sử dụng phòng ngủ trong nhà của mình làm địa điểm để cho Phan Phước T và Huỳnh Ngọc Hoài N sử dụng trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine. Bị cáo Phan Phước T có hành vi chuẩn bị công cụ, ma túy để tổ chức cho Lê L và Huỳnh Ngọc Hoài N sử dụng trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine tại nhà của Lê L. Số ma túy còn lại có khối lượng 0,7239 gam loại Methamphetamine, T cất giữ trên tay với mục đích để sau này sử dụng thì bị cơ quan Công an huyện Cư M’gar phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê L đã phạm vào Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, theo điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự.

Điều 256 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

d) Đối với 02 người trở lên;” Hành vi nêu trên của bị cáo Phan Phước T đã phạm vào Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự và Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 255 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b) Đối với 02 người trở lên;” Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, ADMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam;”.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về các chất gây nghiện, đồng thời gây mất ổn định trị an xã hội, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo là người có đủ năng lực hành vi và nhận thức để biết được ma túy là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý, không tổ chức cá nhân nào có quyền sử dụng, tàng trữ, ... trái phép. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật, với lối sống không lành mạnh, nghiện ngập nên bị cáo Lê L mặc dù đã có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng vẫn sử dụng căn phòng ngủ trong nhà của mình làm địa điểm cho Phan Phước T và Huỳnh Ngọc Hoài N sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo Phan Phước T đã có hành vi mua ma túy, chuẩn bị công cụ để tổ chức cho Lê L và Huỳnh Ngọc Hoài N sử dụng trái phép chất ma túy, T còn tàng trữ 0,7239 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly các bị cáo Lê L và Phan Phước T ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.

[5] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ, hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,6931 gam ma túy, loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu là hàng cấm, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chai nhựa có nắp đậy màu trắng được đục hai lỗ; 01 ống thủy tinh; 01 ống nhựa màu xanh – trắng; 01 quẹt ga màu đỏ, là phương tiện phạm tội của các bị cáo, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro, màu xám, số IMEI1 351194960258073; số IMEI2 351194960402796 gắn thẻ sim số 03839197xx là tài sản của bị cáo Phan Phước T, T dùng làm phương tiện để liên lạc rủ Lê L sử dụng trái phép chất ma túy nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 47H1-808.xx, nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu xanh, số khung RLHJA392PY540766, số máy JA39E-3179449, là tài sản hợp pháp của ông Phan Phước Đ (cha đẻ của bị cáo Phan Phước T). Việc bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy ông Đ không biết, không liên quan. Vì vậy, ngày 02/01/2023 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại xe mô tô trên cho ông Phan Phước T là phù hợp, cần chấp nhận.

[7] Đối với Huỳnh Ngọc Hoài N: Quá trình điều tra xác định được, quá trình đi mua ma túy với T, N chỉ đồng ý đi theo nhưng không góp tiền để mua ma túy, không trực tiếp điều khiển xe mô tô để chở T mà chỉ ngồi phía sau, lúc T đến địa điểm mua ma túy, N không đi cùng mà đứng chờ ở đường Phan Bội Châu, thành phố B. Khi về đến nhà L, N không phải người tìm kiếm, cung cấp bộ dụng cụ sử dụng ma túy, không phải là người lấy ma túy ra bỏ vào nỏ để sử dụng mà N chỉ là người được T cho sử dụng ma túy. N không gọi điện rủ L về sử dụng ma túy, không giúp T hàn gói nylon chứa ma túy và không cất giữ số ma túy còn lại của T. Do đó, hành vi của Huỳnh Ngọc Hoài N không Đ phạm với Lê L về hành vi Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy và không đồng phạm với Phan Phước T về hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar không đề cập xử lý hình sự đối với Huỳnh Ngọc Hoài N là phù hợp.

Đối với ông Phan Phước Đ (là cha đẻ của bị cáo Phan Phước T): Quá trình điều tra xác định được việc bị cáo Phan Phước T lấy xe mô tô biển số 47H1-80878, nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu xanh, số khung RLHJA392PY540766, số máy JA39E-3179449 do ông Đ làm chủ sở hữu hợp pháp thì ông Đ không biết, không liên quan và không được hưởng lợi gì. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar không đề cập xử lý hình sự đối với ông Đ là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo Phan Phước T, quá trình điều tra xác minh đối tượng chưa có kết quả nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Phan Phước T, Lê L, Huỳnh Ngọc Hoài N: Ngày 01/10/2023, Công an huyện Cư M’gar đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng đối với Lê L; ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt cảnh cáo đối với Phan Phước T và Huỳnh Ngọc Hoài N, theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị định số 144 ngày 31/12/2021 của Chính Phủ.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê L phạm Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo Phan Phước T phạm Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê L 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/9/2023.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Phan Phước T 07 (Bảy) năm tù về Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự:

Tổng hợp hình phạt của hai tội, hình phạt chung buộc bị cáo Phan Phước T phải chấp hành là 08 (Tám) năm 03 (Ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ tạm giam ngày 23/9/2023.

*Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,6931 gam ma túy, loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định; 01 chai nhựa có nắp đậy màu trắng được đục hai lỗ; 01 ống thủy tinh; 01 ống nhựa màu xanh – trắng; 01 quẹt ga màu đỏ.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro, màu xám, số IMEI1 351194960258073; số IMEI2 351194960402796 gắn thẻ sim số 03839197xx.

(Có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/02/2024 giữa Công an huyện Cư M’gar và Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư M’gar).

- Chấp nhận việc Cơ quan điều tra trả lại 01 xe mô tô biển số 47H1-808.xx, nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu xanh, số khung RLHJA392PY540766, số máy JA39E-3179449 cho ông Phan Phước Đ là chủ sở hữu hợp pháp.

*Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Lê L, Phan Phước T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2024/HS-ST về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;