TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 05/2024/HS-ST NGÀY 31/01/2024 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 31 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2024/HSST ngày 18 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2024/QĐXXST - HS ngày 19 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Bình M (tên gọi khác: Không), sinh ngày 18/8/1982, tại tỉnh Y; nơi cư trú: Tổ dân phố x, thị trấn Nông trường T, huyện V, tỉnh Y; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; họ tên cha: Không xác định, họ tên mẹ Nguyễn Thị N; có vợ là Hà Thị Kim O, sinh năm 1990, có 02 con (con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017); tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 08/2023/HSST ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm tính từ ngày tuyên án về tội “Đánh bạc”. Bị cáo bị tạm giữ ngày 15/12/2023, tạm giam ngày 18/12/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Y. Có mặt.
Người bào chữa: Bà Nguyễn Thị H - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Y. Có mặt.
Người làm chứng: Anh Hà Xuân B, sinh năm 1986, trú tại thôn Khe D, xã C, huyện V, tỉnh Y. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 08 giờ 00 phút, ngày 15/12/2023, tại nhà của Nguyễn Bình M ở Tổ dân phố x, thị trấn Nông trường T, huyện V, tỉnh Y, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế- ma túy Công an huyện V phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Bình M đang có hành vi mua bán trái phép pháo hoa nổ cho một người đàn ông lạ mặt, khi phát hiện lực lượng Công an thì người đàn ông này đã bỏ chạy. Cơ quan điều tra thu giữ tại nền nhà, gần bàn uống nước chỗ M đang đứng có 01 thùng bìa cát tông màu vàng, bên trong có 07 khối hộp hình chữ nhật, mỗi khối hộp có kích thước 14,5cm x 22,5cm x 10,5cm và 01 khối hộp hình chữ nhật có kích thước 20cm x 18,5cm x 14,5cm, thu giữ tại gầm giường trong buồng ngủ của gia đình M 01 khối hộp hình chữ nhật có kích thước 20cm x 18,5cm x 14,5cm, thu giữ của M 02 điện thoại di động. Nguyễn Bình M khai nhận 09 khối hộp hình chữ nhật thu giữ nêu trên là pháo hoa nổ do Trung Quốc sản xuất, M mua về với mục đích để bán lại cho người khác.
Tiến hành khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở, đồ vật của Nguyễn Bình M không thu giữ tài liệu, đồ vật gì.
Kết quả điều tra đã xác định: Khoảng tháng 11/2023, Nguyễn Bình M sử dụng điện thoại di động lên mạng xã hội Facebook đặt mua của một người có tên là Tuyền 09 giàn pháo hoa nổ loại 36 quả; 02 giàn pháo hoa nổ loại 49 quả với giá 9.850.000 đồng được tặng thêm 01 băng pháo tép. Sau đó, M đã bán cho Hà Xuân B 01 băng pháo tép với giá 80.000 đồng. Ngày 28/11/2023 và ngày 30/11/2023, tại nơi ở của mình, M bán cho một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ 02 giàn pháo hoa nổ loại 36 quả với giá 2.000.000 đồng. Khoảng 08 giờ ngày 15/12/2023 người đàn ông này tiếp tục đến nhà M hỏi mua 07 giàn pháo hoa nổ loại 36 quả và 01 giàn pháo hoa nổ loại 49 quả, M đồng ý. Trong lúc M và người mua pháo đang giao dịch mua bán, chưa kịp giao pháo, nhận tiền thì bị bắt quả tang, người đàn ông đến mua pháo của M bỏ chạy, không bắt giữ được.
Tại bản Kết luận giám định số: 1571/KLGĐ ngày 16/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: “09 khối hộp đều được dán bên ngoài bằng giấy có in họa tiết hoa văn và chữ nước ngoài nhiều màu sắc, trên một cạnh của mỗi khối hộp được gắn một đoạn dây dẫn gửi đến giám định là pháo hoa nổ (có chứa thuốc pháo; khi đốt có gây tiếng rít, tiếng nổ và tạo hiệu ứng màu sắc trong không gian), có tổng khối lượng là 15,5kg (Mười lăm phảy năm kilôgam); Pháo nổ, pháo hoa nổ được quy định trong Nghị định số 137/2020/NĐ-CP, ngày 27/11/2020 của Chỉnh phủ về quản lý, sử dụng pháo” Tại bản cáo trạng số 09/CT-VKS- VC ngày 18/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố bị cáo Nguyễn Bình M về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 của BLHS với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo” và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm”. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Nguyễn Bình M phạm tội “Buôn bán hàng cấm”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Bình M từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm”; áp dụng khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 của BLHS tổng hợp với hình phạt 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” tại Bản án số 08/2023/HSST ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện V, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của cả hai bản án. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; đề nghị tịch thu tiêu hủy số pháo nổ còn lại đã được niêm phong; truy thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 80.000 đồng; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 02 điện thoại di động, đề nghị miễn án phí cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Bình M nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, không có tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, đề nghị miễn án phí, nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp.
Người bào chữa cho bị cáo cơ bản nhất trí với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và các vấn đề khác trong vụ án. Về mức hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm”, tổng hợp hình phạt với bản án số Bản án số 08/2023/HSST ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện V, đề nghị miễn án phí cho bị cáo.
Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã công bố lời khai, tài liệu. Bị cáo công nhận lời khai của người được công bố là đúng và không có ý kiến gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Tại phiên toà bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở kết luận: Vì mục đích kiếm lời vào khoảng tháng 11/2023 Nguyễn Bình M đặt mua pháo hoa nổ trên mạng xã hội Facebook về để bán. Sau đó, bị cáo đã bán cho Hà Xuân B 01 bánh pháo tép với giá 80.000 đồng và bán 02 giàn pháo hoa nổ cho một người đàn ông (chưa rõ nhân thân lai lịch) với giá 2.000.000 đồng. Ngày 15/12/2023 khi Nguyễn Bình M khi đang tiếp tục trao đổi mua bán trái phép pháo hoa nổ với trọng lượng 15,5 kilôgam cho người đàn ông (chưa rõ nhân thân lai lịch) trước đó thì bị bắt quả tang. Theo kết luận giám định số pháo thu giữ của Nguyễn Bình M pháo hoa nổ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ, sử dụng các loại pháo nổ và pháo có đặc tính như pháo nổ là mặt hàng Nhà nước cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, sử dụng sẽ bị xử lý theo pháp luật, nhưng vì hám lợi vẫn cố ý thực hiện. Hành vi bán 15,5kg pháo hoa nổ của bị cáo Nguyễn Bình M đã phạm tội “Buôn bán hàng cấm” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc sản xuất, quản lý và sử dụng pháo nổ, làm ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển kinh tế của Nhà nước cần thiết phải được xử lý theo quy định của pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Năm 2023 bị cáo Nguyễn Bình M bị xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm về tội “Đánh bạc” theo Bản án số 08/2023/HSST ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện V, đang trong thời gian chấp hành hình phạt lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý thuộc trường hợp "tái phạm" quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS, HĐXX áp dụng đối với bị cáo.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo đầy đủ, rõ ràng về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự "Người phạm tội thành khẩn khai báo" quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS được áp dụng cho bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo đã bị xét xử về tội Đánh bạc, đang chấp hành hình phạt lại tiếp tục phạm tội mới, cho thấy bị cáo là người có nhân thân chưa tốt.
[4] Từ những nhận xét, đánh giá về tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự. Hội đồng xét xử xét cần phải áp dụng hình phạt tù, với mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội đối với bị cáo, để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, góp phần giáo dục người khác ý thức tôn trọng pháp luật. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa đề nghị với bị cáo về tội “Buôn bán hàng cấm” và đề nghị tổng hợp hình phạt của Bản án số 08/2023/HSST ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện V cơ bản phù hợp với quy định của pháp luật. HĐXX sẽ cân nhắc khi áp dụng hình phạt.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thuộc hộ nghèo, HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng, tài sản tạm giữ của vụ án vụ án:
- 15,5 kilôgam pháo hoa nổ, Cơ quan giám định đã lấy 3,9 kg làm mẫu giám định không hoàn lại. Số còn lại 11,6 kilôgam cùng toàn bộ bao gói, được niêm phong, dán kín trong 01 thùng cát tông là vật chứng của vụ án và là vật Nhà nước cấm, nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định của pháp luật.
- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SONY, màu xanh, màn hình cảm ứng;
01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu itel, màu đen, loại bàn phím bấm là vật bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.
- Bị cáo khai đã bán 01 bánh pháo tép với số tiền 80.000 đồng; bán 02 giàn pháo hoa nổ với giá 2.000.000 đồng, số tiền này bị cáo đã tiêu xài hết. Quá trình điều tra xác định được Hà Xuân B là người mua 01 bánh pháo tép của bị cáo M với giá 80.000 đồng xét đây là tiền do bị cáo phạm tội mà có nên cần truy thu, sung quỹ Nhà nước; đối với việc bị cáo bán 02 giàn pháo hoa nổ giá 2.000.000 đồng cho người đàn ông (chưa rõ nhân thân, lai lịch), ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu chứng minh nên không đủ cơ sở để xử lý.
[6] Vấn đề khác:
Về nguồn gốc số pháo hoa nổ, pháo tép: Bị cáo khai đã mua số pháo này trên mạng xã hội Facebook của 01 người đàn ông có tên là Tuyên, nhưng không biết cụ thể họ tên, tuổi, địa chỉ của người này, nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để làm rõ và xử lý.
Đối với Hà Xuân B là người đã mua 01 băng pháo tép của Nguyễn Bình M để sử dụng. Hành vi của B không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Uỷ ban nhân dân huyện V đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Hà Xuân B về hành vi sử dụng pháo trái phép là phù hợp quy định pháp luật.
Đối với người đàn ông đã hai lần mua bán pháo với bị cáo trong các ngày 28/11/2023, ngày 30/11/2023, đến ngày 15/12/2023 lại tiếp tục đến hỏi mua pháo.
Tuy nhiên, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để làm rõ và xử lý.
[8] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo, tại phiên tòa xin miễn án phí. HĐXX chấp nhận miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bình M phạm tội “ Buôn bán hàng cấm”.
2. Về hình phạt:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bình M 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù.
Căn cứ khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của bản án này với thời gian 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc” của Bản án số 08/2023/HSST ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Y buộc bị cáo Nguyễn Bình M phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/12/2023, được khấu trừ thời gian tạm giữ của vụ án trước là 06 ngày (kể từ ngày 02/11/2022 đến ngày 07/11/2022).
3. Về xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ: Căn cứ các điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; các điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.
- Tịch thu, tiêu hủy 11,6 kg pháo hoa nổ cùng toàn bộ bao gói được niêm phong dán kín trong 01 hộp cát tông.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 18/12/2023 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Y và Ban chỉ huy quân sự huyện V, tỉnh Y).
- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SONY, màu xanh, màn hình cảm ứng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu itel, màu đen, loại bàn phím bấm.
- Truy thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 80.000 đồng (tám mươi nghìn đồng) của Nguyễn Bình M.
(Đặc điểm Theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 22/01/2024 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Y và cơ quan Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Y).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 05/2024/HS-ST về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 05/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về