Bản án 05/2023/HS-ST về tội tổ chức, chứa chấp việc sử dụng sử dụng trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐM HÀ, TNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 05/2023/HS-ST NGÀY 31/05/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC, CHỨA CHẤP VIỆC SỬ DỤNG SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2023 /QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2023 đối với các bị cáo:

1, Ngô Hồng Q; sinh ngày 22/4/2002 tại huyện Đ, tỉnh Q; Nơi cư trú: phố T, thị trấn Đ. huyện Đ, tỉnh Q; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Văn T và bà: Đỗ Thị N; Vợ con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: không có.

Bị tạm giữ ngày 21/12/2022. Hiện đang tạm giam; Có mặt tại phiên toà.

2, Nguyễn Thanh C; sinh ngày 31/3/1992 tại huyện Đ, tỉnh Q; Nơi cư trú: thôn T, xã Q. huyện Đ. tỉnh Q; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Xuân Đ và bà: Nguyễn Thị L; Vợ: Phạm Thị T1, có 01 con sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: không có.

Nhân thân: ngày 10/4/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, về tội “Trộm cắp tài sản”; đến ngày 27/11/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 12 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bị tạm giữ ngày 26/12/2022. Hiện đang tạm giam; Có mặt tại phiên toà.

3, Chu Thị T2; sinh ngày 19/11/2001 tại huyện Đ, tính Q; Nơi cư trú: thôn T, xã Q, huyện Đ, tỉnh Quàng Ninh; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Chu Văn M và bà: Lê Thị T3; Chồng: Nguyễn Thế H (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: không có.

Bị tạm giữ ngày 21/12/2022. Hiện đang tạm giam; Có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng:

+ Anh Chu Văn T4, sinh ngày 28/5/2002, nơi cư trú: thôn B, xã T, huyện Đ, tỉnh Q. Vắng mặt, không có lý do.

+ Chị Triệu Thị S, sinh ngày 01/3/2005, nơi cư trú: thôn L, xã Đ, huyện B, tỉnh Q. Vắng mặt, không có lý do.

+ Chị Chiu Thị N1, sinh ngày 05/02/2004, nơi cư trú: thôn N, xã Đ, huyện B, tỉnh Q. Vắng mặt, không có lý do.

+ Chị Lò Thị T5, sinh ngày 05/6/2000. nơi cư trú: bán Huôi Vang, xã M, huyện M. tỉnh Đ, vắng mặt. không có lý do.

+ Anh Nguyễn Hoài P, sinh ngày 31/10/1964, nơi cư trú: phố L, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Q. Vắng mặt, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng cuối tháng 10/2022, Chu Thị T2 thuê căn nhà số C phố M, thị trấn Đ, huyện Đ của ông Nguvễn Hoài P (trú tại phố L, thị trấn Đ, huyện Đ) để ở và chăm sóc sắc đẹp cho khách. Đến đầu tháng 12/2022, T2 có thuê Lò Thị T5 (sinh năm 2000, trú tại bản H, xã M, huyện M, tỉnh Đ); Chíu Thị N1, sinh năm 2004 và Triệu Thị S, sinh ngày 01/3/2005, cùng trú tại xã Đ, huyện B, tỉnh Q đến ở và làm nhân viên phục vụ tại các quán hát. Thương bố trí cho S ở phòng tầng 1, N1 và T5 ở phòng tầng 3, còn T2 ở phòng tầng 2. Trong thời gian này T2 và mọi người có quen biết với Nguyễn Thanh C, Ngô Hồng Q và Chu Văn T4 (sinh năm 2002, trú tại thôn B, xã T, huyện Đ) nên họ thường xuyên đến chơi và ăn nghỉ tại nhà T2.

Khoảng 18 giờ ngày 18/12/2022, C cầm theo túi ma túy (loại Ketamine) đến nhà T2 chơi thấy T2, T5, N1, S và Q đang ngồi ăn cơm ở phòng bếp tầng 1. C liền đi lên tầng 2 vào phòng ngủ của T2 lấy ra một ít ma túy để sử dụng, số còn lại cất giấu trong người rồi quay xuống phòng bếp ăn cơm. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, T2 đi chơi với bạn chị Nguyễn Thị M1, sinh năm 1994, ở gần nhà trọ của T2, còn Q lấy xe máy đi đón bạn là T4 đến. Một lúc sau Q đi vào phòng bếp hỏi C “có biết chỗ nào bán ma túy Ketamine không mua hộ Q” mục đích để mời mọi người sử dụng, C trả lời “không biết”, nhưng do chơi thân với nhau, lại có sẵn túi ma túy Ketamine giấu trong người nên C lấy đưa cho Q và nói “anh còn một ít, cầm mà chơi”. Q cầm túi ma túy đến trước cửa phòng ngủ tầng 1 thấy S và T4 đang ở trong phòng liền giơ lên khoe đã có ma túy, rồi rủ S, T4 lên tầng 2 sử dụng. Q và T4 đi lên trước, thấy trong phòng ngủ của T2 đã có sẵn một đĩa sứ màu trắng hình tròn đường kính 23cm, một thẻ ATM ngân hàng V màu xanh của Q và 01 ống hút được cuộn bằng tờ tiền 10.000 đồng. Q liền lấy túi Ketamine đổ ra đĩa sứ dùng thẻ ATM kẻ chất bột màu trắng thành các đường thẳng nhỏ (tức xào ke) rồi dùng ống hút để hít ma túy qua đường mũi, sau đó đưa cho T4 sử dụng. Khoáng 20 phút sau, S cũng lên sử dụng ma túy cùng mọi người, còn C chỉ lên ngồi chơi. Một lúc sau do còn phê ma túy đã sử dụng trước đó nên C nằm ngủ. Cả bọn chơi đến khoảng 22 giờ cùng ngày, thì Q đi lên tầng 3 rủ N1 xuống tầng 2 cùng sử dụng ma túy. Do có khách ở quán hát gọi nhân viên phục vụ nên Q chở T5 đi làm, khi quay về thấy N1, S, T4 vẫn đang sử dụng ma túy nên tiếp tục chơi cùng mọi người.

Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, T2 cùng chị M1 đi chơi về vào phòng thấy Q, C, T4, N1 và S đang sử dụng ma túy, sợ chị M1 biết nên T2 cầm chiếc đĩa sứ đựng ma túy Ketamine giấu xuống dưới gầm đệm rồi rủ C, T4, S ngồi chơi bài giải trí. Một lúc sau T2 không chơi nữa mà đi lên tầng 3 vào phòng của N1 nằm nghỉ. Lúc này Q không thấy đĩa đựng ma túy đâu nên đã hỏi N1 “đĩa ma túy đâu”, thì N1 chỉ xuống gầm tấm đệm. Q lấy đĩa đựng ma túy ra rồi lấy chiếc thẻ ATM và ống hút rủ N1 lên phòng N1 ở tầng 3 để sử dụng tiếp. Tại đây Q rủ T2 cùng sử dụng nhưng T2 nói “mai phải đi đám cưới bạn sớm, sợ mệt” nên không sử dụng. Một lúc sau C, S, T4 không chơi bài nữa mà tiếp tục lên cùng mọi người sử dụng ma túy. Thấy vậy T2 đi xuống tầng 2 để nghỉ. Đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 19/12/2022 T5 đi làm về cùng vào cùng sử dụng ma túy. Cả bọn vừa chơi ma túy vừa nghe nhạc, sợ ảnh hưởng đến hàng xóm nên T2 đi lên nhắc mọi người chơi xong thì đi nghỉ sớm, nhưng Q, C, T4, S, N1, T5 vẫn tiếp tục sử dụng. Đến khoảng 07 giờ ngày 19/12/2022, T2 lên phòng cất chiếc đĩa sứ và chiếc thẻ ATM, còn ống hút mang vào phòng vệ sinh đốt vì sợ bị người khác phát hiện.

Đen 18 giờ 45 phút ngày 19/12/2022, tổ công tác Công an huyện Đ tiến hành kiểm tra hành chính tại số nhà C phố M, thị trấn Đ. Tại thời điểm kiểm tra có mặt T2, S, T5, N1 đều khai nhận được Q, C mời sử dụng ma túy vào tối ngày 18/12/2022. T2 đã tự nguyện giao nộp 01 chiếc thẻ ATM V màu xanh mang tên Ngô Hồng Q trên bề mặt còn bám dính chất bột màu trắng và 01 chiếc đĩa sứ màu trắng là dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy. Ngoài ra còn phát hiện thu giữ trong ngăn tủ bàn trang điểm của T2, đặt tại phòng khách tầng một 01 viên nén hình tam giác màu hồng, kích thước (0,1 x 0,1 x 0,6)cm được gói bằng giấy vệ sinh màu trắng.

Tại bán kết luận giám định số 2075/KL-KTHS ngày 27/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q kết luận: trong mẫu nước tiểu thu giữ của Chu Thị T2 và Lò Thị T5 ngày 20/12/2022 có chứa Dehydronorketamine; trong mẫu nước tiểu thu giữ của Ngô Hồng Q, Chu Văn T4, Chíu Thị N1, Triệu Thị S ngày 20/12/2022 có chứa Dehydronorketamine và chất ma túy MDMA. (Dehydronorketamine là sản phẩm chuyển hóa của ma túy loại Ketamine trong nước tiểu).

Tại bản kết luận giám định số 2057/KL-KTHS ngày 26/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q kết luận: 01 mảnh vỡ viên nén màu hồng thu giữ tại nhà của Chu Thị T2 ngày 19/12/2022 là ma túy loại MDMA, khối lượng 0,306 gam; chất bột màu trắng bám dính trên thẻ ATM V màu xanh mang tên Ngô Hồng Q thu giữ tại nhà của Chu Thị T2 ngày 19/12/2022 là ma túy loại Ketamine có khối lượng dạng vết không xác định được trọng lượng.

Cáo trạng số 04/CT-VKSĐH ngày 28/4/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố các bị cáo Ngô Hồng Q và Nguyễn Thanh C về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Chu Thị T2 về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự.

Người làm chứng anh Chu Văn T4, chị Lò Thị T5, Chíu Thị N1, Triệu Thị S tại cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo tại phiên toà ngày hôm nay.

Người làm chứng anh Nguyễn Hoài P có lời khai thể hiện: Gia đình anh có căn nhà số C, phố M, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Q do chưa có như cầu sử dụng nên anh cho thuê. Tháng 10/2022 anh P có cho Chu Thị T2 thuê ngôi nhà có địa chỉ như trên để làm cửa hàng chăm sóc sắc đẹp. Từ khi bàn giao nhà cho T2 anh P không đến ngôi nhà trên để kiểm tra nên anh không biết việc chị T2 sử dụng ngôi nhà trên chứa chấp việc sử dụng ma tuý.

Tại phiên tòa các bị cáo Ngô Hồng Q, Nguyễn Thanh C, Chu Thị T2 đều thừa nhận hành vi phạm tội mình đã thực hiện như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố đối với các bị cáo. Các bị cáo không thắc mắc gì về nội dung bản cáo trạng, không khiếu nại thắc mắc gì về kết luận giám định, các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên toà đại diện Viện kiếm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Ngô Hồng Q, Nguyễn Thanh C phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và bị cáo Chu Thị T2 phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 58; điểm s khoán 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Ngô Hồng Q từ 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng đến 8 (tám) năm tù, về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính ngày bị bắt 21/12/2022.

- Áp dụng điểm b, c khoán 2 Điều 255; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh C từ 7 (bảy) năm đến 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng tù, về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 26/12/2022.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Chu Thị T2 từ 7 (bảy) năm đến 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng tù, về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 21/12/2022.

Về vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, đường kính 23cm, sâu 03cm; 01 gói phong bì còn niêm phong số 2057/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q.

- Trả lại cho Chu Thị T2 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax màu xanh, số máy MG9T3LL/A, số sê ri F2LFCQ540D42, bên trong lắp sim điện thoại số 0355.289.xxx; 01 chiếc loa màu đen, nhãn hiệu S1, mã sản phẩm MX-T40/VX đã qua sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Người làm chứng anh Chu Văn T4, anh Nguyễn Hoài P, chị Lò Thị T5, Triệu Thị S, Chíu Thị N1 vắng mặt tại phiên toà, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên căn cứ các Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về chứng cứ xác định có tội:

Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, cùng các tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định:

Khoảng 20 giờ ngày 18/12/2022, tại số nhà C phố M, thị trấn Đ, huyện Đ do Chu Thị T2 thuê lại và quản lý, Ngô Hồng Q và Nguyễn Thanh C đà có hành vi tổ chức cho Chu Văn T4, Chíu Thị N1, Triệu Thị S (là người dưới 18 tuổi) và Lò Thị T5 sử dụng trái phép chất ma túy (loại Kentamine). Nguyễn Thanh C là người cung cấp ma túy cho Q để tổ chức cho mọi người sử dụng. Chu Thị T2 mặc dù biết rõ nhưng do nể nang nên đã cho mọi người sử dụng trái phép chất ma túy ngay tại nhà do mình quản lý.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Ngô Hồng Q, Nguyễn Thanh C, Chu Thị T2 là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, tiếp tay cho hành vi mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, xâm phạm trật tự an ninh xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Ma túy đang là hiểm họa của toàn xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến sức khỏe về tinh thần, thể chất và tài sản của người sử dụng, gây lo lắng buồn phiền cho những người thân trong gia đình mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và loại tội phạm khác. Các bị cáo Q, C, T2 là người trưởng thành có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ ma túy là chất Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, mua bán trao đổi, sử dụng nhưng vì mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng của bản thân mà các bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do các bị cáo Q, C tổ chức cho nhiều người cùng sử dụng và có chị Triệu Thị S, sinh ngày 01/3/2005 chưa đủ 18 tuổi, do vậy hành vi của các bị cáo phải chịu tình tiết định khung hình phạt “đối với hai người trở lên” và “đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Bị cáo T2 chứa chấp cho 6 người sử dụng trái phép chất ma tuý nên bị cáo phái chịu tình tiết định khung hình phạt “đối với hai người trở lên” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình theo bản Cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Ngô Hồng Q. Nguyễn Thanh C phạm tội Tổ chức trái phép chất ma tuý được quy định tại điểm b, C khoán 2 Điều 255 Bộ luật hình sự; Chu Thị T2 phạm tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý được quy định tại điềm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự.

Điều 255 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a,.....

b, Đối với 02 người trở lên.

c, Đối với người từ đ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi’ Điều 256 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép cht ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ 07 năm đến 15 năm:

a, .....

d, Đối với 02 người tr lên.”

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết xem xét giảm nhẹ theo diêm s khoán 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo C ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội, khách thể xâm phạm, lỗi và nhân thân các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo việc cải tạo, giáo dục riêng đối với các bị cáo và đảm bảo công tác đấu tranh, phòng ngừa chung đối với xã hội.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đề nghị áp dụng điều luật và mức hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[5] Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án thấy:

Trong vụ án này các bị cáo phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn. Bị cáo Q là người chủ động đi hỏi ma tuý, rủ rê lôi kéo mọi người cùng sử dụng trái phép chất ma tuý nên bị cáo giữ vai trò đầu vụ và phải chịu mức hình phạt cao nhất. Bị cáo C là người cung cấp ma tuý để Q mời mọi người sử dụng và cùng sử dụng với mọi người nên bị cáo có vai trò sau bị cáo Q.

Bị cáo T2 không tham gia bàn bạc với Q và C về việc tổ chức cho mọi sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng T2 không ngăn cản mọi người sử dụng trái phép chất ma túy tại ngôi nhà do T2 đang quản lý do đó T2 phái chịu trách nhiệm độc lập về hành vi của mình.

[6] Về vật chứng:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax màu xanh, số máy MG9T3LL/A, số sê ri F2LFCQ540D42, bên trong lắp sim điện thoại số 0355.289.xxx; 01 chiếc loa màu đen, nhãn hiệu Samsung, mà sản phẩm MX-T40/VX đã qua sử dụng là tài sản của T2 không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, đường kính 23cm, sâu 03cm là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 gói phong bì còn nguyên niêm phong của Công an huyện Đ trên mép dán có hình dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ và chữ ký, họ tên của người tham gia: Trần Duy H1, Nguyễn Minh N2, Dương Tiến D1, Đặng Văn M2 bên trong có 01 thẻ ngân hàng V số thẻ 9704 3655 20513708 010, vỏ bao gói là vật không có giá trị sử dụng và cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[8] Các tình tiết khác của vụ án: đối với số ma tuý MDMA có khối lượng 0,306 gam thu giữ tại nhà T2 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã ra Quyết định tách vụ án hình sự để điều tra làm rõ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Ngô Hồng Q, Nguyễn Thanh C phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Chu Thị T2 phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Ngô Hồng Q 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/12/2022.

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoán 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thanh C 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2022.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 256: điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Chu Thị T2 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/12/2022.

Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, C khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, đường kính 23cm, sâu 03cm; 01 gói phong bì còn nguyên niêm phong của Công an huyện Đ trên mép dán có hình dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ và chữ ký, họ tên của người tham gia: Trần Duy H1, Nguyễn Minh N2, Dương Tiến D1, Đặng Văn M2.

- Trả lại cho Chu Thị T2 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax màu xanh, số máy MG9T3LL/A, số sê ri F2LFCQ540D42, bên trong lắp sim điện thoại số 0355.289.xxx; 01 chiếc loa màu đen, nhãn hiệu Samsung, mã sản phẩm MX-T40/VX đã qua sử dụng.

(Toàn bộ vật chứng tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/5/2023 giữa công an Huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điềm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai có mặt các bị cáo. Báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2023/HS-ST về tội tổ chức, chứa chấp việc sử dụng sử dụng trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Hà - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;