Bản án 05/2022/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 161/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 261/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 68/2021/HSST-QĐ ngày 23 tháng 12 năm 2021 và Thông báo về việc dời phiên tòa xét xử số 07/TB-TA ngày 12 tháng 01 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN ĐỨC N, sinh ngày 27 tháng 11 năm 2000, tại Bình Định; Nơi đăng ký thường trú: Thị trấn P, huyện B, tỉnh Bình Định; Nơi cư trú (nhà trọ): số 23/1 tổ 5, khu phố 2, phường C, Quận D, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn N1 và bà Lê Thị T; vợ, con: không có; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt, tạm giữ, tạm giam: 14/5/2021.(Có mặt)

2. HUỲNH THỊ KHÁNH T, sinh ngày 19 tháng 9 năm 1999, tại Bình Định; Nơi đăng ký thường trú: Thôn T, xã A, huyện B, tỉnh Bình Định; Nơi cư trú (nhà trọ): số 23/1 tổ 5, khu phố 2, phường C, Quận D, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn T và bà Huỳnh Thị Mỹ H; Chồng, Con: không có; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt, tạm giữ, tạm giam: 14/5/2021.

(Có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo N: Ông Nguyễn Văn M – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai.

(Có mặt)

- Bị hại: Công ty Cổ phần G, địa chỉ: tòa nhà VTV, số 8 Phạm H, phường E, quận F, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hồng S, sinh năm 1997, nơi cư trú: số 17 đường X, phường G, Tp. H, Tp. Hồ Chí Minh ( Giấy ủy quyền ngày 02/10/2021) (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn N1, sinh năm 1975, nơi cư trú: khối H, thị trấn A, huyện B, tỉnh Bình Định.

(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

NGUYỄN ĐỨC N và HUỲNH THỊ KHÁNH T sống chung với nhau tại nhà trọ tại số 23/1 tổ 5, khu phố 2, phường C, Quận D và cùng làm việc tại kho hàng của Công ty Cổ phần G đặt tại số 2C đường P, Phường I, quận K, Thành phố Hồ Chí Minh. Công việc chính của N và T là đứng lấy hàng trên băng chuyền, scan mã vạch trên các kiện hàng; thời gian làm việc từ 21 giờ ngày hôm trước đến 07 giờ sáng ngày hôm sau. Trong quá trình sống và làm việc chung với nhau, T có tâm sự với N là cần tiền cho mẹ chữa bệnh và lo cho 02 em ăn học. Do muốn có tiền giúp T nên N rủ T lấy trộm tài sản trong các kiện hàng của Công ty đem bán. T đồng ý. Do đó, cả hai đã thực hiện hành vi trộm cắp như sau:

Ngày 18/4/2021, N được phân công làm việc tại băng chuyền số 5, T được phân công làm việc tại băng chuyền số 7. Khoảng 23 giờ, N phát hiện trên băng chuyền có kiện hàng bên trong là card màn hình có giá trị nên liền naảy sinh ý định trộm cắp bằng cách lấy kiện hàng bỏ xuống sàn nhà. Khoảng 15 phút sau, khi thực hiện việc scan mã vạch lên các kiện hàng, N đã dùng dao lam chuẩn bị sẵn rọc kiện hàng, lấy card màn hình đem giấu vào trong áo đang mặc (phía trước bụng), sau đó dùng băng keo trong (có sẵn tại kho hàng) dán kiện hàng lại và scan mã vạch vào kiện hàng như quy định. Tiếp theo, N đi ra nhà xe bỏ card màn hình vào túi nylon màu đen đã chuẩn bị sẵn rồi cất túi vào cốp xe gắn máy biển số 77H1-X của mình sau đó quay lại tiếp tục làm việc. Hết giờ làm, N chở T về nhà trọ, nói cho T biết vừa lấy được một card màn hình, đồng thời Nghĩa sử dụng điện thoại di động của mình đăng lên trang Chợ Tốt.com để bán card màn hình mới lấy trộm. Sau khi đăng một thời gian thì có người đàn ông liên hệ (không rõ lai lịch) hỏi mua. N đôồng ý bán cho người này với số tiền 4.500.000 đồng và người đàn ông này đã đến nhà trọ nơi N, T ở để trả tiền và lấy hàng.

Quá trình điều tra, Nguyễn Đức N và Huỳnh Thị Khánh T khai với thủ đoạn tương tự, cả hai đã thực hiện lấy trộm tài sản của công ty Gcác lần như sau:

- Từ ngày 21/4/2021 đến ngày 26/4/2021 (không nhớ thời gian), N và T lấy trộm được 03 điện thoại di động hiệu Iphone 12 (điện thoại Trung Quốc) bán được 2.600.000 đồng (khách đến phòng trọ mua).

- Ngày 29/4/2021, N và T lấy trộm được 01 điện thoại di động hiệu Tochino màu đen bán được 1.500.000 đồng (N một mình chạy xe gắn máy đi bán cho khách tại Bình Dương, không nhớ địa điểm).

- Ngày 01/5/2021, N và T lấy trộm được 01 điện thoại di động hiệu Iphone chính hãng màu vàng, bán được 15.000.000 đồng (khách đến phòng trọ mua).

- Ngày 05/5/2021, N và T lấy trộm được 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 plus màu trắng chính hãng, N điều khiển xe mang đi bán cho khách tại Quận 1 (không nhớ địa điểm) với giá 3.500.000 đồng.

- Ngày 07/5/2021, N và T lấy trộm được một điện thoại di động hiệu Iphone 12 màu xanh chính hãng, N điều khiển xe gắn máy chở T bán cho khách ở đường Tô Ký (không nhớ địa điểm) với giá 18.000.000 đồng.

Số tài sản của 05 lần trộm cắp này, có một số N, T trực tiếp đem đi bán (không nhớ địa điểm, người mua), một số N đăng lên trang Chợ tốt.com và người mua đến phòng trọ của N, T mua. Tổng số tiền bán được khoảng 45.100.000 đồng. N và T đã gửi một số về cho mẹ T còn lại N và T tiêu xài. Đồng thời do sợ bị công ty phát hiện nên ngày 10/5/2021, N và T đã tự ý nghỉ việc mà không báo công ty biết.

Đối với công ty cổ phần G, nhận thấy việc N và T nghĩ việc nhưng không thông báo, nên tối ngày 10/5/2021, anh Trần Đức T là nhân viên kho hàng của Công ty đã yêu cầu N và T đến công ty làm việc do nghi ngờ lấy trộm tài sản của công ty. Tại buổi làm việc, N và T đã thừa nhận hành vi lấy trộm tài sản của công ty nên Công ty G đã báo Công an Phường 2, quận Tân Bình xử lý theo thẩm quyền. Tại Cơ quan Công an, N và T đã thừa nhận hành vi phạm tội, đồng thời đã tác động gia đình và chuyển số tiền tổng cộng 237.713.000 đồng vào tài khoản Công ty để bồi thường cho Công ty theo như Công ty yêu cầu.

Kết quả điều tra xác định số tài sản N, T trộm cắp có giá trị là 81.419.000 đồng. Do đó Công ty G đồng ý trả lại cho N và T số tiền 156.294.000 đồng (237.713.000 đồng – 81.419.000 đồng = 156.294.000 đồng).

Đối với những người mua tài sản do Nguyễn Đức N và Huỳnh Thị Khánh T trộm cắp mà có, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch do sau khi bán N đã xóa hết thông tin liên lạc, hiện không xác định được lai lịch nên không có cơ sở điều tra làm rõ.

Ngoài ra, trong quá trình kiểm tra, Công ty G cho biết có phát hiện thêm 13 đơn hàng bị mất các tài sản gồm: 03 điện thoại di động Iphone 12 Promax, 01 card màn hình Asrock, 01 điện thoại di động hiệu Xioami Mi11, 01 điện thoại di động không rõ hiệu, 01 điện thoại di động hiệu Xioami Redmi K40, 01 bộ vi xử lý Intel Corei7, 01 ổ cứng HDD Sata 3, 01 bộ nhớ Ram Corsair vengeance Pro 32gb, 01 điện thoại di động không rõ hiệu, 01 điện thoại di động 11, 01 điện thoại di động không rõ hiệu có tổng trị giá 186.684.000 đồng và cũng nghi ngờ do N, T lấy trộm nên yêu cầu công an xác minh, điều tra làm rõ. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, N và T không thừa nhận việc lấy trộm tài sản trong 13 đơn hàng như Công ty trình báo. Do ngoài trình báo, công ty không có chứng cứ nào xác định N và T thực hiện chiếm đoạt tài sản trong 13 đơn hàng như công ty trình báo nên không có cơ sở điều tra làm rõ.

Vật chứng vụ án:

- Tài sản bị chiếm đoạt gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 promax 128 GB chính hàng (kết quả định giá 27.790.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphne 12pro 128 GB chính hãng (kết quả định giá 28.229.000 đồng), 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 plus chính hãng (kết quả định giá 7.00.000 đồng), 01 điện thoại di động hiệu Tochino hàng Trung Quốc (kết quả định giá 2.600.000 đồng), 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 promax không chính hãng (kết quả định giá 2.800.000 đồng), 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 promax màu trắng không chính hãng (kết quả định giá 2.800.000 đồng), 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 pro màu vàng không chính hãng (kết quả định giá 2.700.000 đồng) và 01 card màn hình vi tính hiệu MSI GTX 1650 Gaming X4GB (kết quả định giá 7.500.000 đồng). Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 81.419.000 đồng (không thu hồi được) - 01 xe gắn máy biển số 77H1-X thu giữ của N. Qua xác minh chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn N1 (cha của Nghĩa). Ông N1 trình bày cho N mượn vào Hồ Chí Minh làm phương tiện đi lại, ông không biết N dùng vào việc trộm cắp, phù hợp với lời khai của Nghĩa. Ông N1 có yêu cầu nhận lại xe. Cơ quan điều tra đã trả lại xe gắn máy trên cho ông N1.

- 01 USB ghi nhận hình ảnh Nghĩa và T đang làm việc tại kho hàng (lưu kèm hồ sơ vụ án).

- 06 bao bì kiện hàng (không có tài sản bên trong) là bao bì mà Nghĩa và T sau khi lấy trộm tài sản bên trong rồi bỏ lại, do Công ty Ggiao nộp.

- Thu giữ của Nghĩa: 01 điện thoại di động hiệu Xioami Poco X3pro màu xanh dương, 01 điện thoại di động hiệu Xioami màu xanh ngọc, 01 áo dạng lưới màu xanh.

- Thu giữ của T: 01 điện thoại di động hiệu Xioami Poco X3pro màu trắng.

Tại bản cáo trạng số 151/CT-VKS ngày 04 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo NGUYỄN ĐỨC N và HUỲNH THỊ KHÁNH T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, cụ thể: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của các bị cáo, bị hại thì hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản có tổng trị giá 81.419.0000 đồng của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật nhà nước bảo vệ, làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an tại địa phương, các bị cáo phạm tội do cố ý nên cần xử phạt các bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa chung. Trong vụ án này, các bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản 06 lần, thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; bị cáo N là kẻ chủ mưu, bị cáo T tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức nên cần xét xử các bị cáo mức án phù hợp với vai trò của từng bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo đã bồi thường cho bị hại để khắc phục hậu quả, gia đình bị cáo N có truyền thống cách mạng, có ông bà ngoại được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến. Từ căn cứ trên đề nghị áp dụng Điều 17, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 2 Điều 173 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo N; áp dụng Điều 17, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 2 Điều 173 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo T; đề nghị xử phạt bị cáo Nghĩa từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; bị cáo T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện theo ủy quyền của Bị hại là anh Nguyễn Hồng S trình bày tổng giá trị tài sản mà các bị cáo đã chiếm đoạt của Công ty theo kết luận điều tra là 81.419.0000 đồng. Trước đây khi chưa có kết quả điều tra, xác định tổng thiệt hại là bao nhiêu và theo yêu cầu của Công ty, các bị cáo đã nộp cho công ty số tiền 237.713.000 đồng để khắc phục hậu quả. Tuy nhiên hiện nay đã xác định số tài sản Công ty bị thiệt hại là 81.419.0000 đồng, nên Công ty đồng ý nhận 81.419.000 đồng; số tiền 156.294.000 đồng còn dư ra, Công ty sẽ trả lại cho các bị cáo sau khi xét xử có bản án. Xét thấy Công ty G đã nhận đủ số tiền các bị cáo nộp để khắc phục hậu quả và tự nguyện trả lại cho các bị cáo số tiền nộp dư là 156.294.000 đồng là không trái với quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 xe gắn máy biển số 77H1-X thu giữ của N. Qua xác minh chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn N1 (cha của Nghĩa). Ông N1 trình bày do N mượn vào Hồ Chí Minh làm phương tiện đi lại, ông không biết N dùng vào việc trộm cắp, phù hợp với lời khai của N. Ông N1 có yêu cầu nhận lại xe. Cơ quan điều tra đã trả lại xe gắn máy trên cho ông N1. Hiện không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét lại.

- Đối với 01 USB ghi nhận hình ảnh N và T đang làm việc tại kho hàng (lưu kèm hồ sơ vụ án) là chứng cứ của vụ án cần được lưu giữ cùng hồ sơ vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình để lưu vào hồ sơ vụ án - Đối với 06 bao bì kiện hàng (không có tài sản bên trong) là bao bì mà N và T sau khi lấy trộm tài sản bên trong rồi bỏ lại, do Công ty G giao nộp và 01 áo dạng lưới màu xanh thu giữ của bị cáo N là những vật không có giá trị nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Xioami Poco X3pro màu xanh dương thu giữ của bị cáo N, xét thấy bị cáo dùng điện thoại di động hiệu Xioami Poco X3pro màu xanh dương vào việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với điện thoại di động hiệu Xioami màu xanh ngọc thu giữ của bị cáo N, xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Xioami Poco X3pro màu trắng thu giữ của bị cáo T, xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.

Sau phần luận tội của Viện kiểm sát, các bị cáo không tranh luận, tranh tụng với Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của các bị cáo để chiếu cố giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nhằm giúp cho các bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình.

Luật sư bào chữa cho bị cáo N: Thống nhất với Viện kiểm sát về tội danh, điều luật truy tố bị cáo Nghĩa, ngoài các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà Viện kiểm sát áp dụng để đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo, thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm điều kiện, hoàn cảnh phạm tội của bị cáo Nghĩa, nhân thân của bị cáo cũng như gia đình bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo so với mức án Viện kiểm sát đề nghị.

Sau phần trình bày của Luật sư, đại diện Viện kiểm sát không tranh luận gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ vào hành vi phạm tội của các bị cáo theo các tài liệu, chứng cứ được Công an quận Tân Bình lập, thì việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra quyết định tạm giữ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can ra quyết định tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo Nguyễn Đức N và Huỳnh Thị Khánh T về hành vi trộm cắp tài sản quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ, luận tội, tranh tụng; nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, luật sư, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua việc thẩm tra các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo, bị hại thì hành vi chiếm đoạt tài sản có tổng trị giá 81.419.0000 đồng của các bị cáo là hành vi vi phạm pháp luật, các bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội do cố ý nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Trong vụ án này, bị cáo N có vai trò chủ mưu, bị cáo T là đồng phạm giúp sức, các bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản 06 lần, thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đồng thời qua phần phân tích, đánh giá, nhận định của đại diện Viện kiểm sát trong phần luận tội, nhận thấy những căn cứ Viện kiểm sát viện dẫn làm cơ sở chứng minh hành vi phạm tội để đề nghị truy tố, xử phạt bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét do muốn có tiền phục vụ nhu cầu cá nhân mà các bị cáo đã cố ý phạm tội, bị cáo N là chủ mưu, bị cáo T là đồng phạm giúp sức, vì vậy cần xử phạt các bị cáo mức án phù hợp để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo đã bồi thường cho bị hại để khắc phục hậu quả, gia đình bị cáo N có truyền thống cách mạng, có ông bà ngoại được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến, nên cần giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Việc đại diện viện kiểm sát căn cứ tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân các bị cáo để đề nghị áp dụng Điều 17, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm c khoản 2 Điều 173, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo N; áp dụng Điều 17, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm b, s khoản 1 Điều 51 điểm c khoản 2 Điều 173 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét trình bày bào chữa của Luật sư như nêu trên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử ghi nhận và chấp nhận một phần.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Người đại diện theo ủy quyền của Bị hại là anh Nguyễn Hồng S trình bày tổng giá trị tài sản mà các bị cáo đã chiếm đoạt của Công ty theo kết luận điều tra là 81.419.0000 đồng. Trước đây khi chưa có kết quả điều tra, xác định tổng thiệt hại là bao nhiêu và theo yêu cầu của Công ty, các bị cáo đã nộp cho công ty số tiền 237.713.000 đồng để khắc phục hậu quả. Tuy nhiên hiện nay đã xác định số tài sản Công ty bị thiệt hại là 81.419.0000 đồng, nên Công ty đồng ý nhận 81.419.000 đồng, số tiền 156.294.000 đồng còn dư ra, Công ty sẽ trả lại cho các bị cáo sau khi xét xử có bản án. Xét thấy Công ty G đã nhận đủ số tiền các bị cáo nộp để khắc phục hậu quả và tự nguyện trả lại cho các bị cáo số tiền nộp dư là 156.294.000 đồng là không trái với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận như đề nghị của Viện kiểm sát.

[5] Về vật chứng vụ án:

- Đối với 01 xe gắn máy biển số 77H1-X thu giữ của N. Qua xác minh chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn N1 (cha của N). Ông N1 trình bày do Nghĩa mượn vào Hồ Chí Minh làm phương tiện đi lại, ông không biết N dùng vào việc trộm cắp, phù hợp với lời khai của N. Ông N1 có yêu cầu nhận lại xe. Cơ quan điều tra đã trả lại xe gắn máy trên cho ông N1. Hiện không có ai thắc mắc, khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét lại như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 USB ghi nhận hình ảnh N và T đang làm việc tại kho hàng (lưu kèm hồ sơ vụ án) là chứng cứ của vụ án và có thể lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên cần lưu vào hồ sơ vụ án như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 06 bao bì kiện hàng (không có tài sản bên trong) là bao bì mà N và T sau khi lấy trộm tài sản bên trong rồi bỏ lại, do Công ty G giao nộp và 01 áo dạng lưới màu xanh thu giữ của bị cáo N là những vật không có giá trị nên Hội đồng xét xử tịch thu và tiêu hủy như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Xioami Poco X3pro màu xanh dương thu giữ của bị cáo N, xét thấy bị cáo dùng điện thoại di động hiệu Xioami Poco X3pro màu xanh dương vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu nộp ngân sách Nhà nước như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với điện thoại di động hiệu Xioami màu xanh ngọc thu giữ của bị cáo N, xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Xioami Poco X3pro màu trắng thu giữ của bị cáo T, xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên đề Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 17; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Đức N;

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 17; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Huỳnh Thị Khánh T;

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí, lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[1] Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức N và Huỳnh Thị Khánh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: NGUYỄN ĐỨC N 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày 14/5/2021.

- Xử phạt: HỲNH THỊ KHÁNH T 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn tù tính từ ngày 14/5/2021.

[2] Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty Cổ phần G hoàn trả lại cho các bị cáo Nguyễn Đức N và Huỳnh Thị Khánh T số tiền 156.294.000 (một trăm năm mươi sáu triệu hai trăm chín mươi bốn ngàn) đồng.

[3] Về xử lý vật chứng:

- Giao cho Tòa án nhân dân quận Tân Bình 01 USB (ghi nhận hình ảnh N và T đang làm việc tại kho hàng) để lưu hồ sơ vụ án.

- Tịch thu và tiêu hủy: 06 bao bì kiện hàng (không có tài sản bên trong) và 01 áo dạng lưới màu xanh (Tình trạng vật chứng theo như Phiếu nhập kho vật chứng số 142/PNK ngày 07/10/2021 của Công an quận Tân Bình).

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Xioami Poco X3pro màu xanh dương, số imei 1: 864460050321562, số imei 2: 864460050321570 (Tình trạng vật chứng theo như Phiếu nhập kho vật chứng số 142/PNK ngày 07/10/2021 của Công an quận Tân Bình).

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức N 01 điện thoại di động hiệu Xioami màu xanh ngọc, số imei 1: 868285051108254, số imei 2: 868285051108262 (Tình trạng vật chứng theo như Phiếu nhập kho vật chứng số 142/PNK ngày 07/10/2021 của Công an quận Tân Bình).

- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Thị Khánh T 01 điện thoại di động hiệu Xioami Poco X3pro, số imei 1: 864460052704120, số imei 2: 864460052704138 (Tình trạng vật chứng theo như Phiếu nhập kho vật chứng số 142/PNK ngày 07/10/2021 của Công an quận Tân Bình).

[4] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại Điều 26 Luật Thi hành án (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).

[5] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2022/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Trong thời gian từ 18/4/2021 đến 10/5/2021, N và T đã thực hiện trộm cắp tài sản của Công ty gồm các thiết bị điện tử như điện thoại di động, card màn hình với tổng trị giá 81.419.000 đồng. N và T đã bán các tài sản trộm cắp được và thu về 45.100.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra quyết định tạm giam để điều tra, truy tố N và T về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Tòa án nhân định các hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

Tòa án tuyên phạt Nguyễn Đức N 02 năm 06 tháng tù, Huỳnh Thị Khánh T 02 năm tù. Ghi nhận Công ty cổ phần G tự nguyện hoàn trả lại 156.294.000 đồng cho các bị cáo. Xử lý một số vật chứng liên quan đến vụ án theo quy định của pháp luật.
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;