Bản án 05/2021/HSST ngày 15/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 05/2021/HSST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 113/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2020/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Trác D (Tên gọi khác: D chùa, Lê Trung D), sinh ngày 29 tháng 10 năm 1968 tại: TP.Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn:

3/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nơi cư trú: Thôn X, xã B, huyện A, TP. Hải Phòng; Con ông: Lê Trác K (tên gọi khác Lê Trắc K1) và bà: Trần Thị M (đều đã chết); Vợ: Sông như vợ chồng với Lê Hồng N, sinh 1982 Không có đăng ký kết hôn, có 02 con hiện nay đã ly thân đi đâu không rõ. Bị cáo phải nuôi 02 con; Gia đình có 5 anh em, bị cáo thứ 5.

Tiền sự: không Tiền án: 02 tiền án:

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/HSST ngày 28/4/1992, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt Lê Trung D 08 năm tù về tội Cướp tài sản của công dân, thời hạn tù tính từ ngày 21/9/1991.( Đã chấp hành xong)

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 153/HSST ngày 26/3/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt Lê Trung D 09 năm tù về tội Cướp tài sản, thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2003. ( Đã chấp hành xong)

- Bị cáo bị bắt ngày 13/02/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T17 Bộ Công an.

- Bị hại:

1. Công ty cổ phần công nghiệp Đ.

Địa chỉ: đại lộ Đ, khu công nghiệp S, phường D1, thị xã D2, tỉnh Bình Dương.

Đại diện được ủy quyền Ông Đỗ Tấn T, sinh 1950 theo giấy ủy quyền ngày 24.04.2018 Chức vụ: Phó giám đốc chi nhánh Công ty CPCN Đ (có mặt)

2. Công ty TNHH Maersk Việt Nam/DAMCO. Đã ủy quyền cho Công ty TNHH thương mại dịch vụ M.

Địa chỉ: T1, quận T2, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện hợp pháp: Ông Trương Quang M1.sinh 1973 Chức vụ: Phó giám đốc (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Hoàng Văn B1, sinh năm 1972.

Hộ khẩu thường trú: Thôn A1, H, P, Thành phố Hà Nội. (Đang thi hành án tại phân trại 7, trại giam Thủ Đức) (có mặt) 2. Nguyễn Hữu T3, sinh năm 1984.

(Đang thi hành án tại phân trại 7, trại giam Thủ Đức)

3. Đặng Quang T4 sinh năm 1984.( có mặt) (Đang thi hành án tại phân trại 3, trại giam Thủ Đức).

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trần Hoàng Diệu – Văn phòng Luật sư Trần Hoàng Diệu thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ: số 5 (tầng 2), đường 84, phường 10, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh ( có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liêu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thời gian tháng 7/2010, Đặng Quang T4 giới thiệu Hoàng Văn B1 và Lê Trác D (bạn của B1) gặp Nguyễn Hữu T3 là lái xe của Công ty TNHH vận tải container VINA (trực thuộc Công ty TNHH thương mại dịch vụ M để bàn bạc: Khi nào T4 lái xe đầu kéo chở container hàng hóa có giá trị thì báo cho B1 để trộm cắp.

Để thực hiện hành vi trộm cắp Hoàng Văn B1 đã thuê kho bãi của Công ty TNHH C ở phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai do Vũ Cao T làm giám đốc, để làm nơi tập kết lấy trộm hàng hóa. Trong thời gian tháng 9/2010 đến tháng 12/2010, Đặng Quang T4 cùng đồng phạm đã liên tiếp thực hiện 4 vụ trộm cắp tài sản, như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 22 giờ ngày 27/9/2010 Nguyễn Hữu T3 lái xe biển số 57L-5282 nhận lệnh vận chuyển 01 container 40 phít gồm 2.880 đôi giày đen cao cổ của Công ty cổ phần giày Đ ở lô 3.2, đường số 2, khu công nghiệp Tân Đông Hiệp A, thị xã D2, tỉnh Bình Dương, nay là Công ty cổ phần công nghiệp Đ (Công ty Đ) đến cảng ICD Phước Long – Thành phố Hồ Chí Minh, đế xuất đến Công ty Philip Simon DEVELOPMENT USA INC (số 2829 Santa FF Ave.Vernon, CA90058, USA). Do bàn bạc từ trước nên T3 điện thoại cho B1 ra đón, đưa xe về Công ty C do Trịnh Bá T4 làm bảo vệ. Tại đay Hoàng Văn B1 dùng máy mài, máy khoan và các dụng cụ phá chốt để mở container mà khônglàm đứt dây siêu bấm niêm phong; sau khi mở được cửa B1 cùng Đặng Quang T4, Lê Trác D lên container lấy khoảng 55 thùng cát tông giày, khi đó có T5 (bạn gái của D) có mặt chứng kiến; sau đó Hoàng Văn B1 đóng cửa cài chốt sắt đã đục: bằng cách gắn keo sắt rồi phun sơn cùng màu với container để tránh bị phát hiện, rồi T3 chạy xe về cảng Phước Long giao containet B1 thường.

Sau khi lấy được hàng, B1 thuê xe tải (không xác định được) để chở 55 thùng hàng trên bán cho Phan Phước D là người môi giới buôn bán giày (trú tại đường H1, phường T6, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) được 35.000.000 đồng. Hoàng Văn B1 chia cho T3 20.000.000 đồng, chia cho D và T4 mỗi người 5.000.000 đồng.

Ngày 23/11/2010, Công ty Đ nhận được thư của khách hàng thông báo mất 1.248 đôi giày trị giá xuất xưởng là 19.968,00 USD, được định giá là 378.034.176 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 29/9/2010 Nguyễn Hữu T3 lái xe biển số 57L-5282 nhận lệnh vận chuyển 01 container 40 phít gồm 5.280 đôi giày thể thao loại ASICSI của Công ty Đ chở ra cảng Cái Mép tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu để xuất cho Công ty công nghiệp SH YANG SHIN BAO ( Đ.RENHE, TP NANTOU, Taiwan 540, R.OC Đài Loan). Sau khi có lịch chở hàng, T3 điện hoại cho B1 biết rồi đưa xe về Công ty C để B1 đục phá container rồi cùng Lê Trác D, Đặng Quang T4 lấy khoản 100 thùng giày, B1 đã thuê xe tải mang số giày trên bán cho Phan Phước D được 200.000.000 đồng; Hoàng Văn B1 đã chia cho T3 100.000.000 đồng, T3 chia cho T4 35.000.000 đồng; B1 chia cho D 50.000.000 đồng.

Ngày 25/10/2010, Công ty Đ nhận được thư của khách hàng thông báo mất 2.016 đôi giày trị giá xuất xưởng là 32.554,44 USD, được định giá là 616.320.648,08 đồng.

Vụ thứ ba: Đêm ngày 11/10/2010, Nguyễn Hữu T3 lái xe biển số 57L- 5282 nhận lệnh vận chuyển 01 container 40 phít gồm 6.122 đôi giày thể thao loại ASICSI của Công ty Đ chở ra Tân Cảng– Thành phố Hồ Chí Minh để xuất tiếp cho Công ty công nghiệp SH YANG SHIN BAO (Đ.RENHE, TP NANTOU, Taiwan 540, R.OC Đài Loan). T3 điện báo cho T4 và B1 biết rồi đưa xe về Công ty C để B1 đục phá mở container lấy khoản 150 thùng cát tông giày. Sau đó, B1 bán số giày trên cho Phan Phước D được 300.000.000 đồng; Hoàng Văn B1 đã chia cho T3 160.000.000 đồng, chia cho D 50.000.000 đồng và chia cho T4 40.000.000 đồng.

Ngày 05/11/2010 khách hàng thông báo mất 2.280 đôi giày trị giá xuất xưởng là 35.898,62 USD, được định giá là 679.632.673,4 đồng.

Như vậy, Công ty cổ phần công nghiệp Đ bị mất trộm 03 vụ, trị giá tài sản là 1.673.987.507,92 đồng.

Vụ thứ tư: Công ty POU YUEN Việt Nam (ở số Q, Quốc lộX, phường T7, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh) ký hợp đồng bá cho Công ty Sin Na Mon Trading Limi TED tại 14F, số 78-2, Khu 3, đường Tai chung Kang- Tai chung 40764 Đài Loan, hàng nhập cảng tại Mỹ số lượng 8.100 đôi giày ADIDAS. Ngày 15/12/2010 Công ty POU YUEN Việt Nam giao đủ số hàng trên cho Công ty Damco- Maersk Việt Nam (trụ sở tại, đường P1, Quận X2, Thành phố Hồ Chí Minh) tại kho hàng Sài Gòn CFS, phường L, quận T8, Thành phố Hồ Chí Minh để xuất đi nước ngoài. Công ty Damco- Masersk Việt Nam thuê Công ty TNHH thương mại dịch vụ Minh Phương vận chuyển giao hàng tại cảng ICD TAMEXCO.

Khong 23 giờ ngày 18/12/2010, Nguyễn Hữu T3 lái xe của Công ty TNHH thương mại dịch vụ Minh Phương nhận lệnh vận chuyển 40 phít. Sau khi nhận được hàng, T3 điện báo cho B1 biết và đưa xe về Công ty Cao Tiến để B1 tổ chức đục phá mở container; B1 thuê Vũ Văn Tính, Vũ Văn An, Lâm Văn Thương và cung T4, D lấy được 165 thùng cát tông giày; B1 bán số giày trên cho Phan Phước D được 350.000.000 đồng; B1 chia cho D 50.000.000 đồng, B1 đưa cho T3 200.000.000 đồng để chia cho T4. Nhưng T4 khai: chưa nhận được B1 và T3 chia tiền trong vụ này, vì B1 bị bắt giữ.

Ngày 18/02/2011, Công ty Damco- Maersk Việt Nam nhận được thư của khách hàng thông báo mất 3.840 đôi giày trị giá xuất xưởng là 30.488,80 USD, được định giá là 604.281.600 đồng.

Toàn bộ số tài sản Phan Phước D mua của Hoàng Văn B1, D khai đã bán cho các khách người Campuchia nên Cơ quan điều tra không thu hồi được tài sản.

Căn cứ Kết luận số 120 và 121 ngày 21/5/2012 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xác định giá trị tài sản trong 04 vụ tộm cắp trên như sau:

- Vụ hàng hóa mất ngày 27/9/2010, gồm 1.248 đôi giày cao cổ, trị giá là 378.034.176 đồng.

- Vụ hàng hóa mất ngày 29/9/2010, gồm 2.016 đôi giày các loại, trị giá là 616.320.648,08 đồng.

- Vụ hàng hóa mất ngày 11/10/2010, gồm 2.280 đôi giày các loại, trị giá là 679.632.673,4 đồng.

- Vụ hàng hóa mất ngày 18/12/2010, gồm 3.840 đôi giày, trị giá là 604.281.600 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 33/HSST ngày 24/4/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tuyên bị cáo Hoàng Văn B1, Nguyễn Văn T3 cùng đồng phạm phạm tội trộm cắp tài sản và tuyên hình phạt đối với các bị cáo; đồng thời yêu cầu bị cáo Hoàng Văn B1, Nguyễn Văn T3 cùng các bị cáo trong vụ án phải bồi thường cho Công ty Damco- Maersk Việt Nam 604.281.600 đồng, bồi thường cho Công ty cổ phần công nghiệp Đ 1.673.987.507,92 đồng.

Tại Bản án số 72/2018/HSST ngày 06/11/2018 TAND tỉnh Đồng Nai đã xét xử Đặng Quang T4 08 (tám) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” Tại cáo trạng số 57/CT-VKSTC-V2 ngày 28/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố bị cáo Lê Trác D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a Khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:

Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai trình bày quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng. Hành vi bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã cùng tham gia trộm cắp tài sản với Huỳnh Văn B1, Nguyễn Hữu T3, Đặng Quang T4 và các đồng phạm khác chiếm đoạt tài sản trị giá thiêt hại 2.278.269.107đ (Hai tỷ hai trăm bảy tám triệu hai trăm sáu chín ngàn một trăm lẻ bảy đồng) là đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên xét vai trò bị cáo là đồng phạm với vai trò phụ (Bốc dỡ hàng hóa), cùng hưởng lợi ích, tự nguyện nộp lại một phần thu lợi bất chính, gia đình có công với nước (Cha Nguyễn Trác K là thương binh hạng 2/4); Mặt khác tại cơ quan điều tra trước đây bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình nhưng tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nhận tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51. Tình tiết tăng nặng: Tái phạm nguy hiểm theo điểm h khoàn 1 Điều 52. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, khoản 4 Điều 173, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1, Điều 52, Điều 54, 58 BLHS 2015 tuyên phạt bị cáo Lê Trác D: Từ 08 (tám) năm tù đến 10 (mười) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của luật sư Trần Hoàng Diệu bào chữa cho bị cáo:

Thng nhất tội danh và hình phạt như cáo trạng truy tố của VKSND tỉnh Đồng Nai không tranh luận gì thêm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã rõ, trước đây do sợ tù tội, chưa nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật nên trong quá trình điều tra không thừa nhận hành vi phạm tội nhưng quá trình tạm giam đã suy nghĩ lại và thấy được hành vi sai phạm của mình nên tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nhận tội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ như VKSND tỉnh đã đánh giá. Qua nghiên cứu hồ sơ đề nghị hội đồng xét xử xem xét thêm các tình tiết giảm nhẹ khác như: Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn có 02 con còn nhỏ, bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm, gia đình có công với nhà nước cha là thương binh hạng 2/4; bị cáo đã tác động gia đình khắc phục nộp lại khoản tiền thu lợi bất chính và cơ quan bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để xem xét mức hình phạt nhẹ nhất, sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh :

Tại phiên tòa hôm nay, qua lời thẩm vấn công khai và đối chiếu với các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, bị cáo Lê Trác D trong quá trình điều tra từ khi bị bắt không thừa nhận hành vi phạm tội của mình nhưng tại phiên tòa hôm nay phân tích giải thích của hội đồng xét xử và qua các chứng cứ trong hồ sơ thể hiện, biên bản đối chất với các đồng phạm Hoàng Văn B1, Nguyễn Hữu T3 và Đặng Quang T4 bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Trong thời gian từ tháng 9/2010 đến tháng 12/2010, bị cáo Lê Trác D cùng đồng phạm thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản của Công ty cổ phần công nghiệp Đ và Công ty Damco- Maersk Việt Nam, đã chiếm đoạt tài sản có giá trị 2.278.269.107,92 đồng và được hưởng lợi 185.000.000 đồng (Một trăm tám mươi lăm triệu đồng).

Đây là vụ án đồng phạm có tổ chức, có sự bàn bạc, chuẩn bị công cụ và địa điểm do Hoàng Văn B1 cầm đầu. Bị cáo Lê Trác D đã giới thiệu với Hoàng Văn B1 lái xe Nguyễn Hữu T3, và cùng với Đặng Quang T4, Hoàng Văn B1 và các đồng phạm khác thực hiện hành vi trộm cắp tài sản (04 vụ), bị cáo tham gia vụ án với vai trò bốc vác hàng hóa trộm cắp cho Hoàng Văn B1 để B1 bán đi lấy tiền chia nhau tiêu xài. Vì vậy, bị cáo Lê Trác D là đồng phạm giúp sức cùng Hoàng Văn B1 và các đồng phạm khác thực hiện trộm cắp tài sản có giá trị lớn. Do đó, phải chịu trách nhiệm hình sự về hanh vi phạm tội của mình theo quy định pháp luật.

Như vậy, hành vi của bị cáo Lê Trác D đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điểm a, Khoản 4, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điểm a, Khoản 4, Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999). Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, đã xâm phạm đến tài sản, uy tín của các Công ty trong quan hệ hợp đồng kinh tế, đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo có 02 tiền án từng bị kết án về tội “Cướp tài sản (Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/HSST ngày 28/4/1992, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt Lê Trung D 08 năm tù) và Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 153/HSST ngày 26/3/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt Lê Trung D 09 năm tù về tội Cướp tài sản, thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2003. Chưa xóa án nên phạm tội lần này là tái phạm nguy hiểm. Do đó, cần có mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng một thời gian dài để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét bị cáo tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, trong vụ án này bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm, được hưỡng lợi không lớn, gia đình bị cáo có cha là người có công với cách mạng tham gia quân đội (thương binh hạng 2/4). Bản thân bị cáo đã tự nguyện nộp lại khoản tiền thu lợi bất chính. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là thỏa đáng.

[3] Qua tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử thấy rằng: Ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo về các tình tiết giảm nhẹ là phù hợp nên được ghi nhận.

[4] Ý kiến tranh luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Đã được giải quyết ở bản án hình sự sơ thẩm số 33/2013/HSST ngày 24/4/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai nên không đặt ra để xem xét. Tại bản án này bị cáo chưa bị bắt nên tòa đả buộc các bị cáo B1, T3 và các bị cáo đồng phạm khác liên đới bồi thường và danh quyền khởi kiện đối với Đặng Quang T4 và Lê Trác D nhưng tại phiên tòa hôm nay các bị cáo B1 và T3 có mặt không yêu cầu khởi kiện về trách nhiệm liên đới của Lê Trác D nên không xem xét. Đối với khoản tiền của Lê Trác D được chia là 185.000.000đ (một trăm tám mươi lăm triệu đồng) hiện bị cáo đã nộp lại theo biên lai thu số: 011796 ngày 21.12.2020 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Đồng Nai. Xét thấy đây là khoản thu lợi bất chính cần buộc bị cáo giao nộp xung công quỹ Nhà nước là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng: Đã được giải quyết ở bản án hình sự sơ thẩm số 33/2013/HSST ngày 24/4/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai nên không đặt ra để xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo Lê Trác D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm .

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Trác D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Điểm a, Khoản 4, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điểm a, Khoản 4, Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999); điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo: Lê Trác D 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/02/2020.

Về Trách nhiệm dân sự:

- Buộc bị cáo có trách nhiệm nộp lại khoản tiền thu lợi bất chính là 185.000.000 đ (Một trăm, tám mươi lăm triệu đồng) xung công quỹ Nhà nước; (Gia đình bị cáo đã nộp theo biên lai thu số 011796 ngày 21.12.2020 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Đồng Nai.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015Nghị quyết 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội.

Bị cáo Lê Trác D phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, có mặt bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/HSST ngày 15/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;