Bản án 05/2021/HSST ngày 13/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 05/2021/HSST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 01 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 642/2020/HSST ngày 17/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 665/2020/QĐXXST-HS ngày 28/12/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Quang D; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 09 tháng 4 năm 1990; nơi đăng ký HKTT: Xóm M, xã Ph, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; học vấn: 09/12; con ông: Hoàng Cao Kh và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Giáp Thị Th; có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về An ninh trật tự số 0138782/QĐ-XPHC ngày 14/6/2017 Công an huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/6/2020 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị Nh, sinh năm: 1985, có mặt Địa chỉ: Tổ 9, phường T, thành phố Thái Nguyên

2. Chị Trần Thị Ng, sinh năm: 1972, có mặt Địa chỉ: tổ 03, phường Th, thành phố Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 06 giờ 10 phút ngày 23 tháng 6 năm 2020, tổ công tác Công an phường Th, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực thuộc tổ 10, phường Th, thành phố Thái Nguyên, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tại ví da màu đen của Hoàng Quang D 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, D khai là Heroine. Ngoài ra còn tạm giữ của D 02 chiếc nhẫn tròn trơn bằng vàng 9999, mỗi chiếc có trọng lượng 01 chỉ và 01 ví da màu đen, đã qua sử dụng.

Tiến hành mở niêm phong cân xác định số chất bột màu trắng trong gói nilon màu trắng thu giữ của Hoàng Quang D có khối lượng 0,391 gam, gửi giám định ký hiệu A.

Tại Kết luận giám định số 4069/C09-TT2 ngày 02/7/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,391 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Quang D khai: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 22/6/2020, D đi xe buýt từ huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực phường Q, thành phố Thái Nguyên tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. D gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine được gói bằng giấy màu trắng với giá 3.000.000 đồng. Mua xong, D sử dụng một phần, phần còn lại D cất vào chiếc túi da màu đen của D rồi đi về phòng trọ thuộc tổ 10, phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên để sử dụng, đến 06 giờ 10 phút ngày 23/6/2020 thì bị tổ công tác của Công an phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên bắt quả tang như trên.

Quá trình điều tra, Hoàng Quang D còn khai: trong 02 ngày 15/6/2020 và 19/6/2020, D đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 13 giờ ngày 15/6/2020, D đi bộ đến nhà trọ của chị Nguyễn Thị Nh, sinh năm: 1985, trú tại: Tổ 9, phường Th, thành phố Thái Nguyên. D đi ra phía sau nhà thấy có một ô thoáng cửa sổ có chấn song bằng sắt, nên dùng tay cầm một thanh kim loại dài khoảng 40cm đang ở trên nền đất gần đó bẩy làm gẫy 02 chấn song của ô thoáng để chui vào trong nhà. D đi vào phòng ngủ thì thấy một chiếc két sắt màu xanh, D lật ngửa chiếc két ra rồi lấy một thanh gỗ dài khoảng 02 mét dùng làm thang giường chọc mạnh vào một bên cửa két làm đầu còn lại vênh lên. D thò tay phải kéo các đồ vật, tài sản ở trong két ra thì thấy có nhiều tiền, loại mệnh giá 500.000 đồng, 200.000 đồng, 100.000 đồng để trong một chiếc túi xách màu đen và trong 04 phong bao lì xì. Tổng cộng D đếm có 8.000.000 đồng, D lấy hết số tiền này ra rồi cho vào túi quần. Quá trình đập phá két, D bị rách da chảy máu ở ngón tay cái bàn tay phải. D đã dùng chiếc chăn ở trên giường để lau và rửa vết thương ở tại bồn cầu trong nhà vệ sinh và đi ra ngoài.Số tiền trộm cắp được D đã tiêu xài cá nhân hết.

Tại Kết luận giám định số 4454 ngày 31/7/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an xác định: Các mẫu ghi dấu vết vật chất màu nâu đỏ tại chăn và trên bồn cầu đều là máu người và đều là máu của Hoàng Quang D.

Tại Kết luận số 274/HĐĐGTS ngày 03/11/2020 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận: 01 chiếc két sắt nhãn hiệu Hòa Phát KA40, màu xanh, KT 709X483X340 mm, đã qua sử dụng, giá trị 500.000đồng.

- Vụ thứ hai: Khoảng 08 giờ ngày 19/6/2020, D đi bộ đến nhà chị Trần Thị Ng, sinh năm: 1972, ở tổ 03, phường Th, thành phố Thái Nguyên, trèo tường đi vào trong sân. D nhặt một thanh kim loại cậy phá khóa cửa chính, đi vào trong nhà chốt cửa lại. D lấy 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Philips, màu vàng đang để ở cạnh chiếc tivi cho vào túi quần. Thấy một cái két bằng kim loại ở gầm cầu thang, D đi ra sau nhà lấy 01 chiếc cuốc, 01 con dao và 01 đoạn ống nước mang vào trong nhà. D lật ngửa cái két ra sử dụng các đồ vật trên để cậy phá cửa két lấy số tiền 7.000.000 đồng, 02 chiếc kiềng, 01 chiếc lắc, 12 chiếc nhẫn tròn trơn, tất cả đều bằng vàng, sau đó đi theo lối cửa sau trèo tường đi ra ngoài. Đến buổi chiều cùng ngày, D bắt xe taxi đến các cửa hàng vàng bạc Kg, M, Đ và Q thuộc khu vực thị trấn Tr, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội bán tổng cộng 02 chiếc kiềng, 01 chiếc lắc, 09 chiếc nhẫn tròn trơn bằng vàng được khoảng 72.000.000 đồng, còn 03 chiếc nhẫn vàng D mang về nhà. Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Philips, màu vàng, D khai vào quán điện thoại gần tiệm vàng bán nhưng chủ quán không mua nên D đã vứt bỏ. Ngày 20/6/2020, D đi đến cửa hàng vàng bạc Th thuộc thị trấn H, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên bán 01 chiếc nhẫn vàng được 4.700.000 đồng, còn 02 chiếc nhẫn vàng đã bị tổ công tác của Công an phường Th, thành phố Thái Nguyên thu giữ khi bắt quả tang ngày 23/6/2020.

Ngày 21/6/2020, D đưa số tiền 59.720.000 đồng cho vợ là Giáp Thị Th, sinh năm: 1996, trú tại: Xóm M, xã K, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, D nói với Th là tiền tiết kiệm mà có, nhờ Th cất giữ hộ. Ngày 22/6/2020, Th đưa số tiền trên cho bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1971, trú tại: Xóm M, xã K, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Ngày 23/6/2020, bà H giao nộp số tiền 59.720.000 đồng cho Cơ quan điều tra.Số tiền còn lại D sử dụng để tiêu xài cá nhân hết.

Tại Kết luận số 176/HĐĐGTS ngày 26/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận: 01 chiếc kiềng, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng là 05 chỉ; 01 chiếc kiềng, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng là 03 chỉ; 01 chiếc lắc vòng, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng là 03 chỉ; 11 chiếc nhẫn tròn, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng mỗi chiếc là 01 chỉ; 01 chiếc nhẫn tròn, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng 02 chỉ. Giá trị của những tài sản trên tại thời điểm bị cáo trộm cắp là 114.500.000 đồng.

Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Phillips, màu vàng, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng, còn hoạt động bình thường.Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên từ chối định giá.

Tại Kết luận số 165/HĐĐGTS ngày 15/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận: 01 chiếc két sắt bằng kim loại, không rõ nhãn hiệu, hình hộp chữ nhật, có kích thước 0,9m x 0,6m x 0,4m, cánh cửa bị biến dạng, móp méo, két đã qua sử dụng, trị giá 450.000đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Quang D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Vật chứng của vụ án:

- Số tiền 15.000.000 đồng, tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( trong đó: số tiền 8.0000.000 đồng là tiền D trộm cắp của chị Nh, số tiền 7.0000.000 đồng là tiền D trộm cắp của chị Ng); 01 chiếc kiềng, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng là 05 chỉ; 01 chiếc kiềng, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng là 03 chỉ;

01 chiếc lắc vòng, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng là 03 chỉ; 09 chiếc nhẫn tròn, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng mỗi chiếc là 01 chỉ; 01 chiếc nhẫn tròn, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng 02 chỉ. Hiện tài sản trên không thu hồi được.

- 02 chiếc nhẫn tròn, bằng vàng 9999, có trọng lượng vàng mỗi chiếc 01 chỉ; 01 chiếc két sắt bằng kim loại, đã thu hồi trả cho chị Trần Thị Ng là chủ sở hữu.

- 01 chiếc két sắt nhãn hiệu Hòa Phát KA40, màu xanh, KT 709X483X340 mm, đã qua sử dụng, đã trả chị Nguyễn Thị Nh là chủ sở hữu quản lý và sử dụng.

- 01 chiếc cuốc, cán dài 1,75 mét, 01 đoạn ống nước bằng kim loại, 01 con dao dài 30cm; 01 thanh kim loại, dài 50cm, 01 thanh gỗ, dài 02m, 01 phong bì niêm phong dán kín số 4069/C09(TT2); 01 ví da màu đen, đã qua sử dụng, được bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Về phần dân sự:

- Chị Ng đã nhận lại số tiền 59.720.000 đồng và yêu cầu D bồi thường số tiền 54.380.000 đồng.

- Chị Nh yêu cầu D bồi thường số tiền 8.000.000 đồng và 500.000 đồng giá trị chiếc két sắt.

Hoàng Quang D chưa bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 647/CT-VKSNDTPTN ngày 30/11/2020, VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Hoàng Quang D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Quang Dkhai nhận rõ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 647/CT-VKSNDTPTN ngày 30/11/2020, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Hoàng Quang D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

- Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Hoàng Quang D từ 15 đến21 tháng tù;

- Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Hoàng Quang D từ 30 đến 36 tháng tù; Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của 02 tội đối với bị cáo;

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy vật chứng.

Về trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo bồi thường cho chị Nguyễn Thị Nh , chị TrầnThị Ng số tiền tương ứng với tài sản không thu hồi được.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[2] Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Quang D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng mô tả. Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu được, Kết luận giám định, lời khai của bị hại và các chứng cứ, tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định Hoàng Quang Dđã có hành vi mua 0,391 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân và 02 lần trộm cắp tài sản trị giá 129.500.000 đồng. Hành vi của bị cáo Hoàng Quang D đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Bản cáo trạng số 647/CT-VKSNDTPTN ngày 30/11/2020VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Hoàng Quang Dtheo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[4] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước và xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo [5] Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với cả hai tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và Trộm cắp tài sản. Bị cáo phải chịu tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội từ 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với tội Trộm cắp tài sản.

Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo [6] Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung:Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản gì để đảm bảo thi hành, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng: Cần tịch thu, tiêu hủy số ma tuý thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định, tịch thu tiêu hủy các vật chứng khác.

Về trách nhiệm dân sự:

[9] Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại phần tài sản không thu hồi được cho chị Trần Thị Ng và chị Nguyễn Thị Nh theo Kết luận định giá tài sản.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự phần bồi thường và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạtHoàng Quang D 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Hoàng Quang D 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự về tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 51 (năm mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 23/6/2020.

2. Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Quyết định tạm giam bị cáo Hoàng Quang D 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyển án để đảm bảo thi hành án.

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

4. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 589 Bộ luật dân sự;

Buộc bị cáo Hoàng Quang D phải bồi thường thiệt hại tài sản cho chị Nguyễn Thị Nh số tiền: 8.000.000 đồng và giá trị chiếc két sắt là 500.000 đồng, tổng cộng là 8.500.000 đồng;

Buộc Hoàng Quang D bồi thường cho chị Trần Thị Ng giá trị số vàng chưa thu hồi được và giá trị chiếc két sắt là 54.380.000 đồng.

Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không tự nguyện thi hành số tiền trên, thì hàng tháng còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương tứng với thời gian chậm trả cho đến khi thi hành xong. Mức lãi suất chậm trả do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền chậm trả. Trường hợp không thỏa thuận được về lãi suất chậm trả thì được xác định bằng 50% của mức lãi suất theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự.

5. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng:Tịch thu tiêu hủy:

- 01 bì niêm phong dán kín số 4069/C09(TT2) - 01 chiếc cuốc, cán dài 1,75 mét, bàn cuốc KT 23cm x 15cm, đã qua sử dụng; 01 đoạn ống nước bằng kim loại, dài 50cm; 01 con dao dài 30cm, đã cũ;

01 thanh kim loại, dài 50cm, đã hoen rỉ; 01 thanh gỗ, dài 02m, rộng 15cm, cao 05cm;01 ví da màu đen, đã qua sử dụng.

nh trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số 148 ngày 25/11/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

5. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí: buộc bị cáo Hoàng Quang D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.144.000 đồng án phí dân sự phần bồi thường nộp Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, bị hạicó quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/HSST ngày 13/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;