Bản án 05/2021/HS-ST ngày 09/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Văn Q, sinh ngày 12/7/2002 (thời điểm giám định tháng 7/2020 theo Kết luận giám định bị cáo có độ tuổi từ 16 năm 9 tháng đến 17 năm 3 tháng); nơi sinh: huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; nơi cư trú: ấp M.P, xã M.A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Đạo Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Đ, sinh năm 1960 và bà Lê Thị Ngọc L, sinh năm 1960 (chết); Bị cáo chưa lập gia đình;

- Tiền án, tiền sự: chưa;

- Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ 12/12/2020 đến nay và có mặt tại phiên tòa.

Đại diện hợp pháp cho bị cáo: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1960 (là cha của bị cáo); nơi cư trú: ấp M.P, xã M.A, huyện C.M, tỉnh An Giang, (Có mặt).

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông Lương Minh H, Trợ giúp viên pháp lý bào chữa chỉ định theo sự phân công của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh An Giang, (Có mặt).

Bị hại:

1. Anh Phan Thanh H, sinh năm 1969; nơi cư trú: ấp Mỹ Phú, xã M.A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

2. Chị Phạm Thị Ngọc B, sinh năm 1974; nơi cư trú: ấp Mỹ Phú, xã M.A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, (Có mặt).

Người làm chứng:

+ Ông Lê Dũng Ch (7 S), (Vắng mặt);

+ Anh Võ Thành N (Ph), (Vắng mặt);

+ Anh Phạm Minh Tr (T), (Vắng mặt);

+ Ông Nguyễn Văn H1, (Vắng mặt);

+ Anh Nguyễn Thành T, (Vắng mặt);

+ Anh Võ Thành L, (Vắng mặt);

+ Anh Trần Tứ H, (Vắng mặt);

+ Anh Trần Anh Th, (Vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản thân không nghề nghiệp, cần tiền tiêu xài, Trần Văn Q nảy sinh ý định tìm tài sản lấy trộm. Để thực hiện, khoảng 00 giờ ngày 31/10/2019, Quai đến quán nước“Cây dừa” (cách nhà Q khoảng 100m) tại tổ 4, ấp M.P, xã M.A, huyện Chợ Mới do ông Phan Thanh H và bà Phạm Thị Ngọc B (vợ của H) làm chủ, nhìn thấy quán đóng cửa, bên cạnh có 01 cây thang dài khoảng 04m, nên Q dùng cây thang trèo qua khung gió vào bên trong quán. Q đi đến phòng ngủ của H, B, phát hiện 01 hộp giấy màu vàng đặt dưới nền gạch cạnh cửa phòng, bên trong có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J5, màu vàng đang sạc và số tiền 10.000.000 đồng, nên Q lấy cất giấu vào túi quần Jean, rồi bỏ chạy về nhà. Sau đó, Q đến tiệm game bắn cá“Quốc Cường” tại thành phố L.X, tỉnh An Giang bán điện thoại di động cho L1 (không rõ họ, địa chỉ) với giá 1.000.000 đồng và chơi game bắn cá thua hết tiền. Biết hành vi bị phát hiện, khoảng 07 giờ 30 phút ngày 01/11/2019, Q đến Công an xã Mỹ An đầu thú, nhưng do Q là người chưa thành niên nên cho gia đình bảo lĩnh nhưng Q bỏ trốn đến ngày 12/12/2020 bị Cơ quan cảnh sát điều tra bắt theo quyết định truy nã.

Quá trình điều tra thu giữ các vật chứng thu giữ của bị cáo: 01 áo khoác màu đen, có 02 sọc ngang màu xanh.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 63/KL-HĐĐG ngày 09/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chợ Mới, xác định: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J5, màu vàng gold, trị giá 1.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 3506/C09B ngày 14/7/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, xác định: tại thời điểm giám định (tháng 7 năm 2020) Trần Văn Q có độ tuổi từ 16 năm 09 tháng đến 17 năm 03 tháng.

- Bản Cáo trạng số 06/CT-VKSCM ngày 19/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang truy tố bị cáo Trần Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Diễn biến tại phiên tòa:

- Bị cáo Trần Văn Q thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Bị cáo xác định Kết luận điều tra và Cáo trạng đã truy tố là đúng.

- Bị hại, bà Phạm Thị Ngọc B, Phan Thanh H (chồng của B) xác định: vào khuya ngày 31/10/2019, thức giấc phát hiện nhà bị trộm đột nhập, khi kiểm tra tài sản thì bị mất trộm 01 điện thoại di động hiệu J5 và 10.000.000 đồng, phù hợp với lời khai của bị cáo. Quá trình điều tra, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 11.000.000 đồng (gồm 10.000.000đ và 1.000.000đ giá trị điện thoại theo định giá); tại Tòa do nhận thấy hoàn cảnh bị cáo, gia đình bị cáo khó khăn nên bị hại tự nguyện rút lại yêu cầu trước đây, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường bất cứ khoản tiền gì.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo ông Trần Văn Đ (cha của bị cáo): không biết bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác, do hoàn cảnh khó khăn, thường xuyên đi làm thuê, thiếu quan tâm đến bị cáo, thừa nhận có thiếu sót trong việc quản lý, giáo dục bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất vụ án, mức độ và hậu quả của vụ án tác động đến xã hội, phân tích các tình tiết định tội, định khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về hình phạt: xử phạt bị cáo Trần Văn Q từ 06 tháng đến 09 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Do hoàn cảnh bị cáo khó khăn, không có công việc ổn định, miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa, bị hại tự nguyện rút lại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường bất cứ khoản tiền nào (gồm khoản tiền 11.000.000đ), đây là sự tự nguyện và quyền tự định đoạt của đương sự nên được ghi nhận, không đặt ra xem xét. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy áo khoác của bị cáo, không còn giá trị sử dụng.

- Người bào chữa cho bị cáo phát biểu: đề nghị xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, thời điểm phạm tội và tại phiên tòa theo kết luận giám định bị cáo là người chưa thành niên. Đề nghị, Hội đồng xét xử có thể xử bị cáo mức đầu khung và thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị. Về trách nhiệm dân sự: do bị hại không yêu cầu, đây là sự tự nguyện của bị hại, không trái quy định pháp luật đề nghị xem xét, không buộc bị cáo phải bồi thường.

Sau khi nghe luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng Cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người làm chứng, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như các chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại, những người làm chứng không rõ lý do, những người này được Tòa án tống đạt giấy triệu tập theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, những người này có lời khai cụ thể, rõ ràng được thu thập trong quá trình điều tra, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ tại phiên tòa. Căn cứ các Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Q tại phiên tòa và giai đoạn điều tra là phù hợp với nhau; phù hợp lời khai bị hại, những người làm chứng Lê Dũng Ch, Võ Thanh N, Phạm Minh Tr (Tèo), Nguyễn Thành T (Nhí Bảy Màu), Võ Thành L về diễn biến, tình tiết của vụ án; phù hợp với Biên bản khám nghiệm, bản ảnh, sơ đồ hiện trường. Ngoài ra, còn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: do không nghề nghiệp, ham chơi, cần tiền tiêu xài nên khoảng 00 giờ ngày 31/10/2019, bị cáo đã sử dụng thang đột nhập vào nhà bị hại H, B lấy trộm số tiền 10.000.000 đồng và 01 điện thoại di động J5 trị giá 1.000.000đ. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 11.000.000 đồng.

Hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, tác động đến tình hình an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Tổng giá trị tài sản bị cáo lấy trộm là 11.000.000 đồng. Hội đồng xét xử, có đủ cơ sở để xác định hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang truy tố bị cáo về tội danh, Điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, có căn cứ.

[3] Tại Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 3506/C09B ngày 14/7/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, xác định: tại thời điểm giám định (tháng 7 năm 2020) Trần Văn Q có độ tuổi từ 16 năm 09 tháng đến 17 năm 03 tháng. Đối chiếu thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và tại phiên tòa thì bị cáo là người chưa thành niên, nhưng hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình thực hiện là vi phạm pháp luật do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình đã gây ra. Bị cáo thừa nhận bản thân không có nghề nghiệp ổn định, nhiễm tật xấu bên ngoài xã hội, muốn có tiền tiêu xài, chơi game mà không bỏ ra công sức lao động nên bị cáo đã bất chấp pháp luật và cố ý thực hiện hành vi trộm tài sản. Lợi dụng đêm khuya, không thể cảnh giác của bị hại, bị cáo đã cố ý lén lút lấy trộm tài sản của người khác, tội phạm đã hoàn thành. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của bị hại; gây bất an, tạo dư luận không tốt trong nhân dân, làm mất an ninh trật tự tại địa phương.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm tạo môi trường và điều kiện để bị cáo tu dưỡng, rèn luyện học tập, cải tạo với mục đích giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội sau khi tái hòa nhập cộng đồng và có tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội.

Đối với hành vi Q khai bán điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J5, màu vàng gold cho L1 (không rõ họ, địa chỉ), với giá 1.000.000 đồng, hiện chưa làm việc được với L1, nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là có căn cứ.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: [4.1] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện được sự ăn năn hối cải, chưa tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thời điểm phạm tội đến phiên tòa hôm nay bị cáo là người chưa thành niên. Đây là các tình tiết được Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc là căn cứ giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: đánh giá tính chất vụ án, hoàn cảnh khó khăn, không có nghề nghiệp cụ thể, thu nhập không ổn định, chưa thành niên nên Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa bị hại rút lại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 11.000.000 đồng; bị hại xác định do nhận thấy hoàn cảnh của bị cáo, gia đình bị cáo là khó khăn nên tự nguyện rút lại không yêu cầu bị cáo bồi thường bất cứ khoản tiền nào khác. Đây thể hiện sự tự nguyện và quyền định đoạt của bị hại, phù hợp quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, không đặt ra xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 01 áo khoác, đây là tài sản cá nhân, bị cáo không có ý kiến nhận lại, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định pháp luật.

[9] Luận tội của kiểm sát viên, quan điểm bào chữa cho bị cáo của Trợ giúp viên pháp lý có căn cứ được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn Q phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt: bị cáo Trần Văn Q 06 tháng tù (sáu tháng).

Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 12/12/2020.

3. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 áo khoác màu đen có 02 sọc ngang.

Vật chứng trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới tạm quản lý (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/3/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Chợ Mới với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Văn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo, đại diện hợp pháp bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 05/2021/HS-ST ngày 09/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;