Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 140/2020/TLST-HNGĐ, ngày 15 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 05 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 04 tháng 3 năm 2021; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lương Thị Thúy N, sinh năm 1982. Địa chỉ: Xóm NH, xã HT, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1984. Địa chỉ: Xóm NH, xã HT, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 10/7/2020 cũng như bản tự khai, lời khai trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lương Thị Thúy N trình bày: Nguyên đơn và bị đơn anh Nguyễn Văn H kết hôn ngày 17 tháng 9 năm 2007, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn ĐK, huyện TA, tỉnh Cao Bằng. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Nguyễn Văn H nghiện ma túy, thường đi lang thang, không lo làm ăn, không quan tâm con cái, không chăm lo xây dựng gia đình. Từ năm 2013 đến nay vợ chồng không chung sống với nhau, không quan tâm, chăm sóc nhau. Nay nguyên đơn thấy tình nghĩa vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Nguyễn Văn H. Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Nguyễn Thị Trúc Q, sinh ngày 01 tháng 9 năm 2009 và Nguyễn Văn Gia H, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2012. Vợ chồng ly hôn, nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung đến khi trưởng thành, không yêu cầu anh Nguyễn Văn Hào cấp dưỡng nuôi các con chung. Về tài sản chung và các khoản nợ của vợ chồng: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã HT, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tòa án đã tiến hành thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự thủ tục chung và tiến hành tống đạt các Thông báo cho anh Nguyễn Văn H theo quy định nhưng anh Nguyễn Văn H vắng mặt nên Tòa án không tiến hành thu thập được lời khai và tiến hành hòa giải được.

Tòa án đã tiến hành xác minh các nội dung tranh chấp trong vụ án tại UBND xã HT, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; lấy lời khai của ông Nguyễn Văn N và bà Bành Thị T (là bố, mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn H) thì được cung cấp thông tin: Anh Nguyễn Văn H và chị Lương Thị Thúy N có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã HT, huyện Nam Đàn nhưng không đăng ký kết hôn tại địa phương mà đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn ĐK, huyện TA, tỉnh Cao Bằng vào năm 2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung với ông Nguyễn Văn N và bà Bành Thị T tại xóm NH, xã HT, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Khoảng từ 6 đến 7 năm nay anh Nguyễn Văn H và chị Lương Thị Thúy N không chung sống với nhau. Nguyên nhân là do anh Nguyễn Văn H không có trách nhiệm với vợ con, có quan hệ với người phụ nữ khác. Hai con chung của vợ chồng sống cùng chị Lương Thị Thúy N và ông Nguyễn Văn N bà Bành Thị T tại xã HT, huyện Nam Đàn còn anh Nguyễn Văn H thường đi lang thang, thỉnh thoảng về thăm nhà nhưng không ở lâu.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 15/01/2021, cháu Nguyễn Thị Trúc Q và cháu Nguyễn Văn Gia H trình bày nguyện vọng khi bố mẹ ly hôn được sống cùng mẹ Lương Thị Thúy N.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Toà án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định đúng quan hệ tranh chấp; trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ, Thẩm phán chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình thu thập chứng cứ, thủ tục tống đạt đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử đã thực hiện theo đúng trình tự quy định từ Điều 239 đến Điều 260 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của Thư ký phiên tòa được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 51 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có mặt trong quá trình Tòa án giải quyết nên bị đơn không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Về tình cảm: Chị Lương Thị Thúy N được ly hôn anh Nguyễn Văn H. Về con chung: Giao các con chung Nguyễn Thị Trúc Q, sinh ngày 01 tháng 9 năm 2009 và Nguyễn Văn Gia H, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2012 cho chị Lương Thị Thúy N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Nguyễn Văn H do chị Lương Thị Thúy N không yêu cầu. Anh Nguyễn Văn H có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không được ai cản trở. Về tài sản chung và các khoản nợ: Các đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1]. Về thẩm quyền: Chị Lương Thị Thúy N yêu cầu ly hôn và giải quyết việc nuôi con chung với anh Nguyễn Văn H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã HT, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An nên Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung là có căn cứ theo quy định khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn H được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; chị Lương Thị Thúy N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị Thúy N và anh Nguyễn Văn H có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 23, quyển số 01, ngày 17 tháng 9 năm 2007 của UBND thị trấn ĐK, huyện TA, tỉnh Cao Bằng nên đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Căn cứ vào kết quả thu thập chứng cứ xác định nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh Nguyễn Văn H nghiện ma túy nặng, đã đưa đi cai nghiện nhưng không từ bỏ được nên thường đi lang thang, không lo làm ăn, không quan tâm con cái, không chăm lo xây dựng hạnh phúc gia đình. Từ năm 2013 đến nay vợ chồng không chung sống với nhau, không quan tâm, chăm sóc nhau. Xét thấy vợ chồng không chung sống với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc nhau là vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị Lương Thị Thúy N giữ nguyên yêu cầu ly hôn. Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị Lương Thị Thúy N được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

[2]. Về con chung: Chị Lương Thị Thúy N và anh Nguyễn Văn H có hai con chung là Nguyễn Thị Trúc Q, sinh ngày 01 tháng 9 năm 2009 và Nguyễn Văn Gia H, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2012. Thời gian vợ chồng không chung sống với nhau cho đến nay, các con chung do chị Lương Thị Thúy N trực tiếp nuôi dưỡng. Các con chung hiện học tập, phát triển bình thường và đều có nguyện vọng được sống cùng mẹ. Chị Lương Thị Thúy N có công việc và thu nhập ổn định còn anh Nguyễn Văn H thường đi lang thang, thỉnh thoảng về thăm nhà. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các con chưa thành niên, Hội đồng xét xử giao hai con chung cho chị Lương Thị Thúy N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành là phù hợp với thực tế và quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3]. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lương Thị Thúy N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi các con chung nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Văn H.

[4]. Về tài sản chung và các khoản nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau có phát sinh tranh chấp thì các đương sự có quyền khởi kiện đến Tòa án bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

[6]. Các đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lương Thị Thúy N và anh Nguyễn Văn H.

2. Về nuôi con chung: Giao các con chung Nguyễn Thị Trúc Q, sinh ngày 01 tháng 9 năm 2009 và Nguyễn Văn Gia H, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2012 cho chị Lương Thị Thúy N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi các con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi các con chung cho anh Nguyễn Văn H do chị Lương Thị Thúy N không yêu cầu. Anh Nguyễn Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và các khoản nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau có phát sinh tranh chấp thì các đương sự có quyền khởi kiện đến Tòa án bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Chị Lương Thị Thúy N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0003441, ngày 14 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Chị Lương Thị Thúy N đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;