Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 301/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Võ Thị X, sinh năm 2001.

Địa chỉ: xóm 3 thôn Th L (xóm 4 cũ), xã M C (xã D Bình c), huyện D Ch, Nghệ An.

Bị đơn: Anh Nguyễn Kế B, sinh năm 1987.

Địa chỉ: xóm 1-10 (xóm 1 cũ), xã Ng X, huyện Ng L, Nghệ An. Các đương sự đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:

Trong đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 12 năm 2020, bản tự khai cũng như trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Võ Thị X trình bày: Chị và anh Nguyễn Kế B lấy nhau có đăng ký kết hôn ngày 02 tháng 5 năm 2019 tại UBND xã D B (nay là xã M Ch), huyện D Ch, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, hai bên không tìm thấy tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra cãi vã, anh B không quan tâm, chăm lo cho gia đình. Mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể giải quyết được. Chị và anh B đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2020 cho đến nay, hiện tình cảm vợ chồng không còn nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh B.

Về con chung: Chị Võ Thị X và anh Nguyễn Kế B có 01 con chung là Nguyễn Kế Gia B, sinh ngày 21 tháng 9 năm 2018. Hiện nay con đang sống cùng chị nên sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh B cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Võ Thị X không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh Nguyễn Kế B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Về quan hệ hôn nhân:

Đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Võ Thị X được ly hôn với anh Nguyễn Kế B.

Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Kế Gia B, sinh ngày 21 tháng 9 năm 2018 cho chị Võ Thị X được trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Kế B.

Về tài sản và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Kế B cư trú tại xã Ng X, huyện Ng Lộc, tỉnh Nghệ An. Nay, nguyên đơn yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với bị đơn, theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đối với nguyên đơn theo đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Võ Thị X tại phiên tòa là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Kế B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến, triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Bình vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 3 Điều 210 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho anh B. Anh B cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh B.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị X và anh Nguyễn Kế B lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 02 tháng 5 năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã D B (nay là xã M Ch), huyện D Ch, tỉnh Nghệ An trên cơ sở hôn nhân hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm các quy định về điều kiện kết hôn tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị X và anh B là hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn và biên bản lấy lời khai của người làm chứng ông Nguyễn Kế D có cơ sở khẳng định: Sau khi kết hôn, vợ chồng sống với nhau hạnh phúc cho đến năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm thấy tiếng nói chung nên vợ chồng thường xuyên cãi vã; do công việc của anh B thường xuyên xa nhà nên giữa hai vợ chồng thiếu sự cảm thông, chia sẻ, quan tâm dành cho nhau làm cho tình cảm vợ chồng rạn nứt. Chị X và anh B đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2020 cho đến nay. Như vậy, có thể thấy chị X và anh B đã vi phạm nghĩa vụ sống chung, thương yêu, tôn trọng, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện công việc gia đình theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có đủ cơ sở để khẳng định tình trạng hôn nhân giữa chị X và anh B đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị X được ly hôn với anh B là phù hợp với pháp luật.

[2.2] Về con chung: Chị Võ Thị X và anh Nguyễn Kế B có 01 con chung là Nguyễn Kế Gia B, sinh ngày 21 tháng 9 năm 2018. Sau khi ly hôn chị X có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, hiện nay con chung còn nhỏ và đang sống cùng với chị X, nguyện vọng được nuôi con của chị là chính đáng. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Vì vậy cần tiếp tục giao cháu Nguyễn Kế Gia B cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành. Chị X không yêu cầu anh B cấp dưỡng tiền nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh B.

Anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Nếu anh B lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung thì chị X có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung. Chị X cùng các thành viên gia đình không được cản trở trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của anh B

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;

khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, khoản 1 điều 35, của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Võ Thị X và anh Nguyễn Kế B. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Kế Gia B, sinh ngày 21 tháng 9 năm 2018 cho chị Võ Thị X trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Kế B.

Anh Nguyễn Kế B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Nếu anh B lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung thì chị X có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung. Chị X cùng các thành viên gia đình không được cản trở trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của anh B.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Võ Thị X không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Chị Võ Thị X phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0005052 ngày 11 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Lộc. Chị X đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;