Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH H

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 367/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXX- ST ngày 08/01/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Anh Võ T - sinh năm 1973 Địa chỉ: thôn Tây 1, xã S, huyện K, tỉnh H.

Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn Chị Lê thị Đ - sinh năm 1975 Địa chỉ: thôn Tây 1, xã S, huyện K, tỉnhH.

Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 22/7/2020, bản tự khai ngày 29/10/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Võ T trình bày: anh và chị Lê thị Đ tự nguyện yêu thương, chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã A vào năm 2000. Trong qúa trình chung sống giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do anh không có sự tin tưởng chị Đ, không có sự chia sẻ, quan tâm, chăm sóc cho gia đình, dẫn đến vợ chồng có những lời nói không tôn trọng nhau trong cuộc sống, không khí trong gia đình luôn nặng nề, gia đình không hạnh phúc. Nhiều lần tạo điều kiện cho nhau, nhưng vẫn không thể chung sống với nhau. Anh và chị Đ đã không còn quan hệ vợ chồng từ tháng 8/2020 cho đến nay. Anh xác định không còn tình cảm, yêu thương đối với chị Đ. Anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lê thị Đ.

Về con chung: có 03 con chung là Võ Thị A - sinh năm 2001, Võ Lê M - sinh ngày 24/01/2006 và Võ Lê P - sinh ngày 27/12/2013. Đối với cháu A đã trưởng thành nên không có yêu cầu gì. Anh T có nguyện được nuôi dưỡng 02 con chung là cháu M, cháu P và không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: anh và chị Đ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: anh xác định giữa anh và chị Đ không có nợ chung.

Tại bản tự khai ngày 26/01/2021, bị đơn chị Lê thị Đ trình bày: chị thống nhất với lời trình bày của anh T về thời gian sống chung và kết hôn. Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T không có sự tin tưởng chị trong cuộc sống, ghen tuông vô cớ, dẫn đến có những lời nói xúc phạm, hành động bạo lực và không có sự tôn trọng chị. Chị đã nhiều lần cố gắng chịu đựng vì thương các con nhưng anh T vẫn không thay đổi, không khí gia đình nặng nề, gia đình không hạnh phúc. Nay anh T xin ly hôn, chị không đồng ý vì các con còn nhỏ và còn tình cảm với anh T.

Về con chung: có 03 con chung là Võ Thị A - sinh năm 2001, Võ Lê M - sinh ngày 24/01/2006 và Võ Lê P - sinh ngày 27/12/2013. Đối với cháu A đã trưởng thành nên không có yêu cầu gì. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn, chị đồng ý giao cháu M, P cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: chị xác định giữa chị và anh T không có nợ chung.

Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Võ T vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với chị Lê thị Đ; về con chung: có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng nuôi con chung; tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung: không có. Bị đơn chị Lê thị Đ không đồng ý ly hôn; Nếu ly hôn, chị đồng ý giao cháu M, P cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con chung; tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung: không có.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K -H phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ trình tự thủ tục tố tụng. Bị đơn chị Lê thị Đ không chấp hành triệu tập của Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Võ T xin ly hôn với chị Lê thị Đ. Về con chung: Giao 02 con chung là cháu M, P cho anh T trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, anh T không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét. Về tài sản chung: anh T và chị Đ tự thỏa thuận nên không xem xét; nợ chung: anh T và chị Đ xác định không có nên không xem xét. Về án phí: anh T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về quan hệ hôn nhân : Anh Võ T và chị Lê thị Đ tự nguyện yêu thương nhau và có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân xã A, đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 03/2000 ngày 20/01/2000 theo quy định của pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, anh T và chị Đ đều thừa nhận thường xuyên xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do cả hai không có sự tin tưởng nhau trong cuộc sống, có những lời nói không tôn trọng nhau, không có sự chia sẻ, quan tâm, chăm sóc nhau, gia đình không hạnh phúc. Tuy nhiên, tại các buổi làm việc tại Tòa và tại phiên tòa hôm nay, anh T đều xác định không còn tình cảm với chị Đ và không còn quan hệ vợ chồng với nhau từ tháng 8/2020 đến nay. Chị Lê thị Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng chị Đ không đến Tòa án làm việc và tại phiên tòa chị Đ cũng xác định do khuyên anh T không nghe nên đã bỏ mặc không muốn đến Tòa án, nhưng do các con chung còn nhỏ và còn tình cảm với anh T nên chị không đồng ý ly hôn. Tại biên bản xác minh ngày 29/10/2020 bà Đào Thị Hương - Chủ tịch Hội phụ nữ xã S thể hiện: Anh T và chị Đ không có yêu cầu hòa giải mâu thuẫn gia đình nên Hội phụ nữ không nghe thông tin gì về mâu thuẫn giữa anh T và chị Đ. Điều này chứng tỏ, chị Đ không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này và không còn tình cảm với anh T nên cho thấy hôn nhân giữa anh T và chị Đ đã không còn tình cảm yêu thương gì với nhau, dẫn đến gia đình không có hạnh phúc, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể khắc phục, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của anh Võ T được ly hôn với chị Lê thị Đ là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3]. Về con chung : anh T và chị Đ có 03 con chung là Võ Thị A - sinh năm 2001, Võ Lê M - sinh ngày 24/01/2006 và Võ Lê P - sinh ngày 27/12/2013. Đối với cháu A đã trưởng thành, khỏe mạnh, anh T và chịĐ không có yêu cầu gì nên không xem xét. Cháu M, P đều có nguyện vọng ở với anh T và chị Đ cũng có nguyện vọng giao 02 con chung cho anh T trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Hiện tại, anh T đang trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung là M, P và có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi 02 con chung và không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng nuôi con chung. Đây là yêu cầu chính đáng của anh T phù hợp với pháp luật nên cần để anh T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục 02 con chung.

[4]. Về tài sản chung : anh T và chị Đ tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về nợ chung : anh T và chị Đ đều xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. V ề án phí : anh T phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1]. Về quan hệ hôn nhân : Chấp nhận yêu cầu của anh Võ T được ly hôn với chị Lê thị Đ.

[2]. Về con chung : Giao 02 con chung là Võ Lê M - sinh ngày 24/01/2006 và Võ Lê P - sinh ngày 27/12/2013 cho anh Võ T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Lê thị Đ có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Trong quá trình nuôi dưỡng con chung, nếu xét thấy cần thiết, anh T, chị Đ có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung cũng như việc cấp dưỡng nuôi con chung.

[3]. Về tài sản chung : tự thỏa thuận.

[4]. Về nợ chung

 [5]. Về án phí: không có.

- Anh Võ T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân gia đình 300.000 đồng, anh T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0001839 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện K. Anh T đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Quy định chung : Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6]. Quyền kháng cáo : Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;