Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

 Ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 197/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1970. Địa chỉ: thôn C, xã L, huyện H, tỉnh Thanh Hoá. Vắng mặt.

2. Bị đơn: chị Mã Thị T, sinh năm 1973. Địa chỉ: thôn C, xã L, huyện H, tỉnh Thanh Hoá. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày đề ngày 10/11/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Nguyễn Xuân T trình bày: anh và chị Mã Thị T tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1998 nhưng không đăng ký kết hôn. Anh và chị T chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh và chị T bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính cách không hòa hợp nên thường xuyên cãi chữi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không thành dẫn đến anh và chị T ly thân từ năm 2013 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị T.

Về con chung: anh Nguyễn Xuân T khai, anh và chị T có hai con chung. Các cháu tên là Nguyễn Văn T,sinh ngày 01/09/1999 và Nguyễn Thị P, sinh ngày 02/03/2005. Hiện nay, cháu Tuấn đã thành niên nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu P, không yêu cầu chị T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án, anh T thay đổi yêu cầu, đề nghị Tòa án giao cháu Nguyễn Thị P cho chị Mã Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) cho đến khai cháu P đủ 18 tuổi.

Về tài sản: anh Nguyễn Xuân T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập chị Mã Thị T đến Toà án để viết bản khai nhưng chị T đã không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của chị T.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Toà án giải quyết không công nhận anh Nguyễn Xuân T và chị Mã Thị T là vợ chồng, giao cháu P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) của anh T cho đến khi cháu P đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: chị Mã Thị T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để đến Tòa án tham gia phiên hòa giải nhưng chị T đã không có mặt mà không có lý do, nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Chị T cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, anh Nguyễn Xuân T vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh T và chị T là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: anh Nguyễn Xuân T và chị Mã Thị T chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1998 nhưng không đăng ký kết hôn. Theo biên bản xác minh ngày 31/12/2020 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã L, anh T và chị T chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1998 nhưng không đăng ký kết hôn. Như vậy, đủ cơ sở khẳng định anh T và chị T chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn nên không phải là hôn nhân hợp pháp. Vì vậy, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng quy định tại các Điều 9 và 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Anh T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn chị T, do anh T và chị T không đăng ký kết hôn nên Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh T và chị T là phù hợp với khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về con chung: anh Nguyễn Xuân T khai, anh và chị T có hai con chung. Các cháu tên là Nguyễn Văn T, sinh ngày 01/09/1999 và Nguyễn Thị P, sinh ngày 02/03/2005. Anh T cũng xuất trình cho Tòa án giấy khai sinh, trong đó xác định các cháu Nguyễn Văn T và Nguyễn Thị P đều là con chung của anh T và chị T.

Cháu Nguyễn Văn T đã trưởng thành nên anh T không yêu cầu giải quyết. Đối với cháu Nguyễn Thị P, đang ở với chị T và có nguyện vọng được ở với chị T. Xét thấy, cháu P là nữ giới đang độ tuổi phát triển, cần sự chăm sóc về tâm sinh lý của người mẹ nên giao cháu P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: ghi nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Xuân T về việc cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) cho đến khi cháu P đủ 18 tuổi, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]. Về tài sản: anh Nguyễn Xuân T không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: anh Nguyễn Xuân T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội

 1. Về quan hệ hôn nhân: không công nhận anh Nguyễn Xuân T và chị Mã Thị T là vợ chồng.

2. Về con chung: công nhận các cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 01/09/1999 và Nguyễn Thị P, sinh ngày 10/03/2005 là con chung của anh Nguyễn Xuân T và chị Mã Thị T. Giao cháu Nguyễn Thị P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng), thời hạn cấp dưỡng tính từ tháng 02/2021 cho đến khi cháu P đủ 18 tuổi.

Anh Nguyễn Xuân T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị Mã Thị T.

3. Về án phí: anh Nguyễn Xuân T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) anh T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009250 ngày 11/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Anh T còn phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: anh Nguyễn Xuân T và chị Mã Thị T có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;