Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại Hội trường B - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 48/ 2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Thu T sinh năm 1995 Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 10, ấp T, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: Số 2/14, đường số 17, tổ 5, khu phố D, phường S, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Lý Thành L sinh năm 1996 Địa chỉ: Tổ 10, ấp T, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt) 3. Người làm chứng:

- Bà Trịnh Thị S sinh năm 1963 Địa chỉ: Số 2/14, đường số 17, tổ 5, khu phố D, phường S, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

- Bà Trương Thị Thu H sinh năm 1978 Địa chỉ: Tổ 10, ấp T, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 02 tháng 10 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn - chị Trương Thị Thu T trình bày:

Về hôn nhân: Chị Trương Thị Thu T và anh Lý Thành L quen biết, tìm hiểu và yêu nhau được khoảng 08 (Tám) tháng thì tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/3/2019.

Theo chị T, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 02 (Hai) tháng thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Bởi, giữa chị T với gia đình anh L bất đồng quan điểm; chị T không được gia đình anh L tôn trọng, thậm chí chị còn bị xúc phạm “nặng nề”, còn anh L thì không quan tâm đến chị. Mặc dù chị T có đề nghị anh L làm “cầu nối” giải quyết mâu thuẫn nhưng không giải quyết được. Khoảng tháng 12/2019, chị và anh L đã thuê nhà trọ ra ở riêng nhưng anh L lại sống lạnh nhạt, không có trách nhiệm trong khi chị T đang mang thai. Sau khi sinh con được khoảng hai tháng (tháng 5/2020) chị và anh L đã không còn sống chung nhà với nhau, không ai quan tâm đến ai và không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng, hai bên cũng không nói chuyện với nhau để giải quyết mâu thuẫn. Nay chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lý Thành L.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Lý Ngân K, sinh ngày 01/3/2020, hiện con chung đang sống cùng với chị T. Theo đơn khởi kiện ban đầu, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung đồng thời yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Tuy nhiên, ngày 04/11/2020 chị T có đơn xin thay đổi nội dung khởi kiện và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trương Thị Thu T khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản lấy lời khai đề ngày 30 tháng 12 năm 2020, bị đơn - anh Lý Thành L trình bày:

Về hôn nhân: Anh Lý Thành L thừa nhận anh và chị Trương Thị Thu T tìm hiểu, yêu nhau được khoảng 01 (Một) năm thì tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/3/2019.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng khi chị T mang thai được khoảng hai tháng thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cả hai không tìm được tiếng nói chung, chị T không quan tâm đến anh và gia đình anh mà chỉ biết sống cho bản thân. Anh L thừa nhận vợ chồng đã không còn sống chung nhà với nhau, mặc dù hai bên có nói chuyện để giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả nên anh L đồng ý ly hôn theo như yêu cầu khởi kiện của chị T.

Về con chung: Anh L thừa nhận vợ chồng có một con chung là cháu Lý Ngân K, sinh ngày 01/3/2020, hiện con chung đang sống cùng với chị T. Khi ly hôn, anh L đồng ý giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng; hiện anh L đã nghỉ việc và chưa có việc làm nên anh L không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh Lý Thành L khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, cả nguyên đơn, bị đơn và người làm chứng đều không đến tham dự phiên tòa, nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Thu T được ly hôn với anh Lý Thành L;

+ Về con chung: Giao cháu Lý Ngân K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời anh L không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không yêu cầu.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

+ Về án phí: Buộc chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục hay bổ sung gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn yêu cầu ly hôn và tranh chấp về người trực tiếp nuôi con chung, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo kết quả xác minh, hiện bị đơn đang cư trú tại xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về việc xét xử vắng mặt các đương sự: Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn và người làm chứng đều vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 229 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Thu T và anh Lý Thành L tiến tới hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/3/2019 nên được xem là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, nhận thấy: Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không có, vợ chồng đã không còn sống chung với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ và chia sẻ với nhau công việc trong gia đình là có căn cứ phù hợp với lời khai của anh L, những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Mặt khác, trong quá trình giải quyết Tòa án đã nhiều lần tổ chức hòa giải để kêu gọi vợ chồng về đoàn tụ gia đình nhưng anh L đều vắng mặt thể hiện anh L không có thiện chí hàn gắn tình cảm với chị T. Xét mâu thuẫn giữa chị T và anh L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị T và anh L có 01 (một) con chung là cháu Lý Ngân K, sinh ngày 01/3/2020.

Xét yêu cầu của nguyên đơn khi ly hôn được trực tiếp nuôi con chung, nhận thấy: Hiện con chung dưới 36 tháng tuổi và đang sống cùng với chị T; nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của chị T được anh L đồng ý. Do đó, để đảm bảo điều kiện phát triển bình thường, khỏe mạnh về thể chất và tinh thần, không làm xáo trộn cuộc sống hiện tại của con trẻ cần tiếp tục giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

[2.3] Về cấp dưỡng: Chị T hiện có nơi ở, công việc và thu nhập ổn định, đủ điều kiện để chăm sóc cho con chung. Mặc dù đã được Tòa án giải thích pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nhưng hiện anh L chưa có việc làm và chị T cũng không yêu cầu nên tạm thời anh L không phải cấp dưỡng nuôi con.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh L xác định không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Về quyền kháng cáo: Các bên đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 229; Điều 238; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - chị Trương Thị Thu T.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Trương Thị Thu T và anh Lý Thành L được ly hôn.

2. Về con chung:

2.1 Giao cháu Lý Ngân K, sinh ngày 01/3/2020 cho chị Trương Thị Thu T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

2.2 Anh Lý Thành L được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

2.3 Tạm thời anh Lý Thành L không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Trương Thị Thu T không yêu cầu. Anh Lý Thành L được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trương Thị Thu T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí sang nộp án phí theo biên lai thu số 0006311 ngày 29 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Chị T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;