Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về yêu cầu không công nhận là vợ chồng 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ YÊU CẦU KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG 

Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 363/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2020 về việc: “Yêu cầu không công nhận là vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị H; cư trú tại thôn K, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Phạm Văn T; cư trú tại cụm D, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà (có lời khai đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, nguyên đơn là bà Trần Thị H trình bày:

Bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T chung sống với nhau do tự nguyện và có được gia đình hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục truyền thống của địa phương từ năm 1994 nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau khi cưới, bà và ông T chung sống cùng nhau tại gia đình ông T ở cụm D, xã L, huyện A. Quá trình chung sống, hai bên hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hòa hợp nên xảy ra cãi nhau. Do mâu thuẫn căng thẳng nên bà đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở thôn K, xã L đã sống ly thân với ông T. Nay bà Trần Thị H đề nghị Toà án không công nhận bà và ông Phạm Văn T là vợ chồng.

Về con chung: Bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T có hai con chung Phạm Văn T1 – sinh năm 1995 và Phạm Văn T2- sinh năm 1998. Các con chung đã trưởng thành, tự quyết định được cuộc sống.

Về tài sản: Bà Trần Thị H không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 11 năm 2020, bị đơn ông Phạm Văn T trình bày:

Về thời gian chung sống, điều kiện chung sống và nơi chung sống của ông Phạm Văn T và bà Trần Thị H như bà H đã trình bày. Quá trình chung sống, hai bên đã phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp, xảy ra cãi chửi nhau; ông và bà H đã sống ly thân với nhau từ năm 2000 đến nay, không ai còn quan tâm, trách nhiệm đến nhau. Nay bà Trần Thị H khởi kiện tại Tòa án, ông Phạm Văn T có quan điểm nhất trí với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H, đề nghị Tòa án không công nhận ông và bà Trần Thị H là vợ chồng.

Về con chung: Ông Phạm Văn T và bà Trần Thị H có hai con chung như bà Trần Thị H đã trình bày. Hiện tại các con chung đã trưởng thành, tự quyết định được cuộc sống.

Về tài sản: Ông Phạm Văn T không yêu cầu Toà án xem xét, giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến khẳng định:

- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 9, 14 Luật Hôn nhân và gia đình không công nhận bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T là vợ chồng; về con chung: Các con chung Phạm Văn T1 – sinh năm 1995 và Phạm Văn T2- sinh năm 1998 đã trưởng thành, tự quyết định được cuộc sống; về tài sản: Do đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết; về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về việc xét xử vắng mặt của các đương sự:

[1] Bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T có lời khai đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về quan hệ hôn nhân:

[2] Căn cứ vào lời khai của các đương sự, các tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp và do Tòa án thu thập có đủ căn cứ xác định bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện từ năm 1994. Tại thời điểm chung sống bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T đều đủ tuổi kết hôn nhưng cả hai đã không đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Do vậy, mặc dù bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T đã có thời gian dài chung sống cùng nhau và có các con chung, nhưng căn cứ các điều 9, 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 3 Thông tư Liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì không xác định bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T là vợ chồng.

[3] Vì vậy, việc bà Trần Thị H yêu cầu Tòa án không công nhận bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T là vợ chồng là có căn cứ chấp nhận.

- Về con chung:

[4] Trong quá trình chung sống, bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T có hai con chung Phạm Văn T1 – sinh năm 1995 và Phạm Văn T2 - sinh năm 1998 đều đã trưởng thành, tự quyết định được cuộc sống.

- Về tài sản:

[5] Do đương sự không có yêu cầu nên Toà án không xem xét, giải quyết.

- Về án phí:

[6] Bà Trần Thị H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 8 Điều 28; các điều 143, 147 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các điều 9, 14, 15 và 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 4 Điều 3 Thông tư Liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ các điều 6, 7, 9 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016, Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T là vợ chồng.

2. Về án phí: Bà Trần Thị H phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước. Bà Trần Thị H đã nộp số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (theo Biên lai thu tiền số 0012860 ngày 28 tháng 10 năm 2020) nên không phải nộp nữa.

Các đương sự vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về yêu cầu không công nhận là vợ chồng 

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;