Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Việt Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 266/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020, quyết định hoãn phiên tòa số 27/2020/QĐST – HPT ngày 30/12/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Thân Thị N, sinh năm 1990 (có mặt) HKTT: Thôn T, xã T, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

- Bị đơn: Anh Lê Văn C, sinh năm 1993 (vắng mặt) HKTT: Xóm 8, xã H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Nơi ở: Thôn T, xã T, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/10/2020 và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn – chị Thân Thị N trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Chị kết hôn với anh Lê Văn C vào ngày 23/3/2017 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Trước khi cưới vợ chồng chị được tìm hiểu nhau khoảng thời gian ngắn. Sau khi kết hôn chị và anh C về sinh sống cùng bố mẹ chị tại thôn T, xã Tăng Tiến chứ chị không về làm dâu gia đình nhà anh C. Cuộc sống vợ chồng chị hạnh phúc từ khi kết hôn đến tháng 3/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh C không chịu khó làm ăn, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không cùng thống nhất trong việc phát triển kinh tế gia đình. Anh C là người ham mê cờ bạc, không quan tâm gia đình vợ con. Chị đã khuyên anh C nhiều lần nhưng không được, vợ chồng càng ngày càng mâu thuẫn hơn.Vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2020 đến nay, anh C thuê trọ ở ngoài và thi thoảng thì về nhà thăm con. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

Về con chung: Chị xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Hữu L, sinh ngày 18/10/2017. Hiện nay cháu L đang ở cùng chị và phát triển bình thường. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cháu L và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng canh tác: Vợ chồng không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn – anh Lê Văn C: Đã được Tòa án triệu tập nhưng không lên Tòa án làm việc, không có bản tự khai, không hợp tác với Tòa án để giải quyết vụ án.

Xác minh tại địa phương, chính quyền thôn T, xã Tăng Tiến cho biết: Anh Lê Văn C, sinh năm 1993 có vợ là Thân Thị N, sinh năm 1990, con ông Thân Văn T và bà Thân Thị N có hộ khẩu thường trú tại Thôn T, xã T, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Anh C là con rể ông T, bà N. Chị N và anh C kết hôn với nhau năm 2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chị N anh C về ở nhà ông Tâm, bà Nhị, có một khoảng thời gian ngắn thuê nhà trọ bên ngoài nhưng sau đó lại về nhà bố mẹ chị N để ở. Anh C tuy không chuyển khẩu về Tăng Tiến nhưng có đăng ký tạm trú tại địa phương. Vợ chồng chị N anh C mâu thuẫn với nhau như thế nào thì địa phương không rõ nhưng hiện nay anh C không ở nhà bố mẹ chị N mà chỉ thi thoảng về thăm con. Sổ tạm trú của anh C tại địa phương có thời hạn đến năm 2022. Vợ chồng chị N anh C có 01 con chung là cháu Lê Hữu L, sinh năm 2017. Hiện nay cháu L đang ở cùng chị N và phát triển bình thường. Việc chị N xin ly hôn anh C và đề nghị giải quyết việc nuôi con chung của vợ chồng thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn – chị Thân Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình. Về quan hệ vợ chồng, chị xin ly hôn anh C. Lý do chị xin ly hôn anh C vì anh thường chơi lô đề cờ bạc, không quan tâm gì tới gia đình vợ con. Về con chung, chị xác định vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Lê Hữu L, sinh ngày 18/10/2017. Hiện nay cháu L đang ở cùng chị và phát triển bình thường. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi cháu L vì cháu ở với chị từ trước cho tới nay, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác chị xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Lê Văn C đã được niêm yết triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án, xử:

Về quan hệ vợ chồng: Chị Thân Thị N được ly hôn anh Lê Văn C.

Về con chung: Giao chị Thân Thị N được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Hữu L, sinh ngày 18/10/2017. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung N không yêu cầu giải quyết.

Về án phí: Chị Thân Thị N phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Thân Thị N xin ly hôn anh Lê Văn C và đề nghị giải quyết việc nuôi con chung của vợ chồng nên đây là quan hệ pháp luật về tranh chấp hôn nhân và gia đình. Bị đơn là anh Lê Văn C có địa chỉ tại Thôn T, xã T, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang nên theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

Anh C đã được niêm yết triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Do vậy, HĐXX căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh C.

[2] Về quan hệ vợ chồng: Chị Thân Thị N trình bầy chị và anh C kết hôn ngày 23/03/2017 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chị N cũng đã cung cấp được giấy đăng ký kết hôn bản gốc. Như vậy, hôn nhân của chị N anh C là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Nay chị N xin ly hôn, anh C không hợp tác làm việc, không có bản tự khai, không mong muốn hòa giải vợ chồng về đoàn tụ. Qua xác minh tại địa phương thì thấy chị N vẫn ở nhà bố mẹ đẻ còn anh C không ở nhà bố mẹ chị N mà chỉ thi thoảng về thăm con, chị N anh C không ai còn quan tâm tới ai. Điều đó có thể thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N.

[3] Về con chung: Chị N xác nhận chị và anh C có 01 con chung là cháu Lê Hữu L, sinh ngày 18/10/2017. Ly hôn, chị N có nguyện vọng được nuôi cháu L. Hội đồng xét xử xét thấy:

Cháu L hiện nay đang ở cùng chị N và phát triển bình thường. Anh C chỉ thi thoảng về thăm con. Do vậy để tránh xáo trộn cuộc sống của cháu Lộc thì cần tiếp tục giao cháu L cho chị N nuôi dưỡng là phù hợp.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh C không thể hiện nguyện vọng của mình nên HĐXX không xem xét trong vụ án này. [4] Về tài sản, công sức, công nợ, ruộng đất: Chị Thân Thị N xác định không có, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, chị Thân Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra, cần áp dụng các Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào:

- Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; Xử:

Về quan hệ vợ chồng: Chị Thân Thị N được ly hôn anh Lê Văn C.

Về con chung: Giao chị Thân Thị N được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Hữu L, sinh ngày 18/10/2017. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh C có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị Thân Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số AA/2016/0001378 ngày 13/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Việt Yên. Chị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Báo thời hạn kháng cáo là 15 ngày cho đương sự có mặt biết kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;