Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THUỶ, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 13 tháng 01 năm 2021 tại Toà án nhân dân quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 336/2020/TLST – HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 607/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Trịnh Thị L, sinh năm 1981;

Địa chỉ: phường A, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

2. Bị đơn: Ông Phạm Quang K, sinh năm 1972;

Địa chỉ: phường A, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn bà Trịnh Thị L trình bày:

Bà và ông Phạm Quang K tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn vào năm 2005 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện P, tỉnh H. Quá trình chung sống ông bà có một con chung tên Phạm Thị K L (nữ), sinh ngày 01/8/2008. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, mặc dù hai bên đã cố gắng hàn gắn nhưng không thành. Bà L nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông K.

Về con chung: bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Thị K L cho đến khi trưởng thành, yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 5.000.000đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Phạm Quang K: Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông K đều vắng mặt nên vụ kiện không thể hòa giải được, do đó Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết công khai quyết định đưa vụ án ra xét xử và thông báo xét xử vắng mặt ông K theo quy định pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với ông K và yêu cầu trực tiếp nuôi con chung là cháu K L cho đến khi trưởng thành, không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thủy cho rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, những người tham gia tố tụng chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa. Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết, tư cách những người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án: hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, tiến bộ, các thành viên trong gia đình phải có sự tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc nhưng giữa bà Lông K có nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở. Về con chung bà Lyêu cầu được nuôi con chung là cháu K L, không yêu cầu ông K cấp dưỡng; hiện tại cháu K L đang sống cùng bà L và cháu cũng có nguyện vọng được sống với mẹ nên giao con chung cho bà L nuôi dưỡng là phù hợp. Về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: vụ kiện đã được thụ lý theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, do bị đơn ông Phạm Quang K được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án đã tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

[2] Xét về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện bà Trịnh Thị L yêu cầu được ly hôn với ông Phạm Quang K. Hội đồng xét xử thấy rằng tranh chấp giữa các bên đương sự là tranh chấp về ly hôn giữa công dân với công dân thuộc ngành Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thủy theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: bà L và ông K tự nguyện tiến tới hôn nhân có đăng ký kết hôn nên xem đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Mâu thuẫn phát sinh do vợ chồng có sự bất đồng quan điểm sống dẫn đến việc vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm giữa bà L và ông K đã thực sự rạn nứt, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục tình trạng này sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của cả hai, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Liên.

[4] Đối với bị đơn ông Phạm Quang K, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần và đã tiến hành thủ tục niêm yết xét xử vắng mặt bị đơn nhưng ông K vẫn không đến tham gia phiên tòa chứng tỏ ông không còn thiết tha đến việc hàn gắn tình cảm gia đình nên yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

[5] Về con chung: bà Lyêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng hiện tại cháu Phạm Thị K L đang sống cùng bà L. Theo bản tự khai của cháu Khánh Ly thì cháu có nguyện vọng được sống cùng bà L. Do đó giao cháu K L cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Đối với yêu cầu cấp dưỡng, tại phiên tòa hôm nay bà L không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[7] Về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 51, Điều 56, Điều 81 và Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: bà Trịnh Thị L được ly hôn với ông Phạm Quang K.

Về con chung: Giao cháu Phạm Thị K L (nữ), sinh ngày 01/8/2008 cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng, bà L không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho ông K không ai được quyền ngăn cản.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: bà L phải nộp 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chuyển tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 004727 ngày 05/10/2020 thành án phí.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi bị đơn cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;