Bản án 05/2021/HNGĐ – ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp về hôn nhân và gia đình, ly hôn, tranh chấp về nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THƯỜNG XUÂN

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ – ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON

Ngày 29 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số:137/2020/TLST- HNGĐ ngày 08/10/2020 về việc: “Tranh chấp về Hôn nhân và gia đình, ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo  quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số:  23/2020/QĐST-HNGĐ ngày 21/12/2020;  Quyết  định  hoãn  phiên  tòa  số:  01/2021/QĐST-  HNGĐ  ngày 12/01/2021 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Chị Cầm Thị N, sinh năm:1984

Địa chỉ: Thôn BĐ, xã VX, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa. (có mặt)

+ Bị đơn: Anh Nguyễn QL, sinh năm: 1982

Địa chỉ: Thôn BĐ, xã VX, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Cầm Thị N trình bày:

Về hôn nhân: Chị Cầm Thị N và anh Nguyễn Quý L chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi vào tháng 01 năm 2010, theo phong tục tập quán của địa phương , đến tháng 02/2010 mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VX theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống vợ chồng đầm ấm, hạnh phúc được 08 năm, từ năm 2019 thì nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình khó khăn, tính tình không hợp nhau, không theo ý muốn của nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên bất đồng về quan điểm sống. Vợ chồng không có sự chia sẻ. Mặc dù chị và anh L vẫn sống chung nhưng thực tế công việc của ai người đó tự lo, không ai quan tâm đến ai. Từ tháng 08/2020 đến nay do công việc của anh Lâm trên trường bận ôn thi, hơn nữa cả hai vợ chồng thống nhất anh L ở trên trường thì chị N ở nhà chăm con, khi anh L về thì chị N lên nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng có thời gian xa nhau để hiểu rõ nhau hơn, nhưng anh Lvẫn không thay đổi, bản thân chị N cảm thấy mệt mỏi và dằn vặt tinh thần. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, không tìm được tiếng nói chung, mục  đích hôn nhân không đạt được, chị Cầm Thị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Quý L.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Tâm N, sinh ngày 23/8/2010 và Nguyễn Minh C, sinh ngày: 08/3/2014. Vợ chồng ly hôn chị Cầm Thị N xin nuôi cả 02 cháu Nguyễn Tâm N, Nguyễn Minh C và không yêu cầu anh Nguyễn Quý L cấp dưỡng nuôi con chung. Tại các bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Quý L trình bày:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Quý L trình bày anh đồng ý với phần trình bày của chị Cầm Thị N về phần kết hôn. Trong quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được 08 năm, đến năm tháng 9 năm 2019 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng hay tranh luận với nhau cũng do nợ nần, kinh tế khó khăn đôi khi anh L cũng hay nặng lời với chị N, dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh L cũng đã nhận thấy anh có những lúc sai, anh đã sửa đổi, xin lỗi vợ.  Bản thân anh L không đồng ý ly hôn với chị Cầm Thị N vì thương các con và còn tình cảm với chị N, anh muốn cả anh và chị N hai người cùng bỏ qua cho nhau để quay về vợ chồng đoàn tụ nuôi con, vợ chồng ly hôn sẽ ảnh hưởng đến con cái. Chị N vẫn quyết tâm ly hôn anh đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Tâm N, sinh ngày 23/8/2010 và Nguyễn Minh C, sinh ngày: 08/3/2014. Anh Nguyễn Quý L xin nuôi cả hai cháu Nguyễn Thị Tâm N và Nguyễn Minh C và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản; công nợ: Nguyên đơn chị Cầm Thị N và bị đơn anh Nguyễn Quý L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1].Về thủ tục tố tụng: Chị Cầm Thị N có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Thường Xuân xin ly hôn, tranh chấp nuôi con với anh Nguyễn Quý L Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án nhân dân huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa giải quyết vụ án đúng thẩm quyền.

[2].Về hôn nhân: Chị Cầm Thị N và anh Nguyễn Quý L, kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đủ cơ sở xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Xét nguyện vọng xin ly hôn của chị N là có cơ sở, mâu thuẫn giữa vợ chồng chị N và anh L đã kéo dài nguyên nhân là do tính tình không hợp, kinh tế gia đình khó khăn, vợ chồng thường bất đồng quan điểm sống, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Quá trình giải quyết vụ án anh L cũng xác định anh và chị N có mâu thuẫn một phần cũng do lỗi của anh L. Gia đình bên ngoại đã khuyên giải vợ chồng, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần để vợ chồng có cơ hội hàn gắn tình cảm nhưng vợ chồng vẫn không thể quay lại đoàn tụ được với nhau. Ngày 10/12/2020 chị N đã cung cấp cho Tòa án tình trạng mâu thuẫn vợ chồng trong quá trình chung sống. Như vậy xác định mâu thuẫn giữa chị N và anh L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N.

[3].Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Tâm N, sinh ngày 23/8/2010 và Nguyễn Minh C, sinh ngày: 08/3/2014.

Xét nguyện vọng xin nuôi con của chị Cầm Thị N và anh Nguyễn Quý L, Hội đồng xét xử thấy rằng: Nguyện vọng xin nuôi con của anh, chị là hoàn toàn chính đáng, hai cháu Nguyễn Thị Tâm N và Nguyễn Minh C, đang trong độ tuổi đi học, do đó rất cần sự quan tâm chăm sóc ăn học cho cả hai cháu là trách nhiệm của bố, mẹ. Tuy nhiên, cháu Nguyễn Thị Tâm N có nguyện vọng ở với chị N, nhưng hiện nay cháu N đã lớn, cháu có thể tự chăm sóc bản thân, cháu Nguyễn Minh C còn rất nhỏ. Tại phiên Tòa chị Cầm Thị N vẫn giữa nguyên quan điểm xin nuôi cả hai cháu Nguyễn Thị Tâm N, Nguyễn Minh C và không yêu cầu anh Lâm cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét nguyện vọng của anh L xin nuôi cả hai cháu Nguyễn Thị Tâm N và Nguyễn Minh C, nguyện vọng của cháu Tâm N là được ở cùng bố và mẹ nhưng chị N vẫn cương quyết ly hôn. Hội đồng xét xử thấy để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự, cũng như quyền lợi của con chưa thành niên. Mặt khác, chị N và anh L đều là người có thu nhập ổn định, vì vậy, căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật HN&GĐ năm 2014 giao cho mỗi người nuôi một cháu là phù hợp. Giao cháu Nguyễn Minh C cho chị Cầm Thị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Nguyễn Thị Tâm N cho anh Nguyễn Quý L trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung, các bên có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[4].Về tài sản chung; nợ chung: Chị Cầm Thị N và anh Nguyễn Quý L không yêu cầu Toà án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị Cầm Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ Điều 5; điểm a  khoản 5  Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định “Về mức thu, miễn, giảm, thu,nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Cầm Thị N.

Về hôn nhân: Chị Cầm Thị N được ly hôn anh Nguyễn Quý L

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Minh C, sinh ngày: 08/3/2014 cho chị Cầm Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, giao cháu Nguyễn Thị Tâm N, sinh ngày 23/8/2010 cho anh Nguyễn Quý L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung, các bên có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản; công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Cầm Thị N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn  đồng)  tạm  ứng  án  phí  chị  N  đã  nộp  theo  biên  lai  số  0003038  ngày 08/10/2020 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, chị Nghiên đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Cầm Thị N, bị đơn anh Lê Quý L được

quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ – ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp về hôn nhân và gia đình, ly hôn, tranh chấp về nuôi con

Số hiệu:05/2021/HNGĐ–ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thường Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;