Bản án 05/2021/DS-ST ngày 23/03/2021 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THUẬN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 05/2021/DS-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ MUA BÁN TÀI SẢN

 Ngày 23 tháng 3 năm 2021 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm C khai vụ án thụ lý số: 107/2020/TLST- DS ngày 04-11-2020 về tranh chấp “Tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Hộ kinh doanh C; Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Bùi Thúy D, sinh năm 1996, trú tại: ấp M, xã M, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (văn bản ủy quyền ngày 04/11/2020) (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Đỗ Văn T, sinh năm 1971 (vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt); Địa chỉ: ấp M, xã B, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 * Tại đơn khởi kiện ngày 27/10/2020 và trong quá trình xét xử, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn chị Bùi Thúy D trình bày:

Ngày 08/5/2018 ông Đỗ Văn T với Hộ kinh doanh C thống nhất thỏa thuận hợp đồng mua bán thức ăn và thuốc thủy sản để ông T nuôi tôm với nhau, cụ thể Hộ kinh doanh sẽ cung ứng thức ăn tôm, thuốc và hóa chất cho nuôi trồng thủy sản cho ông T (hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng). Đến ngày 01/02/2019 thì hai bên mới ký kết hợp đồng bằng văn bản với nhau.

Hai bên thực hiện trong một thời gian dài thì đến ngày 22/6/2020 ông T còn nợ lại Hộ kinh doanh C tổng cộng số tiền 43.621.000 đồng, từ đó đến nay không trả thêm đồng nào, mặc dù có đòi nhiều lần nhưng ông T cứ hẹn hết lần này đến lần khác.

Nay đại diện cho Hộ kinh doanh C yêu cầu Đỗ Văn T phải trả cho Hộ kinh doanh C số tiền mua bán thức ăn và thuốc thủy sản để nuôi tôm còn thiếu tổng cộng là 43.947.000đ (Bốn mươi ba triệu chín trăm bốn mươi bảy nghìn đồng), trong đó: Gốc 43.621.000 đồng, lãi chậm trả 10%/năm tính từ ngày 01/10/2020 đến ngày 27/10/2020 (27 ngày) bằng 326.000 đồng.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 11/12/2020 bị đơn ông Đỗ Văn T trình bày: Thừa nhận khoảng năm 2019 ông với Hộ kinh doanh C có thỏa thuận hợp đồng mua bán thức ăn và thuốc thủy sản để nuôi tôm với nhau.

Quá trình mua bán thì phía Hộ kinh doanh C tự ngưng không cung cấp thức ăn và thuốc thủy sản nuôi tôm cho ông nữa. Tính đến ngày 01/10/2020 ông còn nợ Hộ kinh doanh C số tiền 43.621.000 đồng, đồng thời hai bên có thỏa thuận mỗi tháng ông trả cho Hộ kinh doanh C 2.000.000 đồng đến khi nào đủ số tiền còn nợ. Nhưng không biết lý do gì nay Hộ kinh doanh C khởi kiện ông.

Nay thừa nhận hiện còn nợ và chỉ đồng ý trả Hộ kinh doanh C số tiền gốc mua bán thức ăn và thuốc thủyy sản để nuôi tôm còn thiếu là 43.621.000 đồng, không đồng ý trả lãi vì hợp đồng mua bán giữa hai bên không có thỏa thuận việc trả lãi.

* Tại phiên tòa:

- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn chị Bùi Thúy D vẫn giữ nguyên ý kiến trình bày và yêu cầu như trên.

- Bị đơn ông Đỗ Văn T vắng mặt lần thứ nhất, nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng nguyên đơn, bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

+ Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn ông Đỗ Văn T phải trả cho nguyên đơn số tiền mua bán thức ăn và thuốc thủy sản để nuôi tôm còn thiếu là 43.947.000đ (Bốn mươi ba triệu chín trăm bốn mươi bảy nghìn đồng), trong đó: Gốc 43.621.000 đồng, lãi chậm trả 10%/năm tính từ ngày 01/10/2020 đến ngày 27/10/2020 (27 ngày) bằng 326.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Về T tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý cho bị đơn ông Đỗ Văn T biết và quy đinh thời gian để bị đơn có ý kiến về việc khởi kiện “Tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản” của nguyên đơn Hộ kinh doanh C. Nhưng bị đơn ông T không có ý kiến gì và cũng không cung cấp chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Do đó, Tòa án vẫn tiến hành việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Ngày 11/12/2020 Tòa án nhận được đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải của chị Bùi Thúy D là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn. Như vậy, được xác định đây là vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “.....Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải”.

Nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo T tục chung, tại phiên tòa, vắng mặt bị đơn ông T (đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử), nhưng ông T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Đồng thời tại phiên tòa, chị Bùi Thúy D là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn không yêu cầu hoãn phiên tòa. Vì vậy, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn ông Đỗ Văn T theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và về thẩm quyền: Nguyên đơn Hộ kinh doanh C khởi kiện yêu cầu ông Đỗ Văn T phải trả số tiền mua bán thức ăn và thuốc thủy sản để nuôi tôm còn thiếu. Do đó, quan hệ pháp luật trong trường hợp này được xác định là tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản và ông T có nơi cư trú cũng như nơi thực hiện hợp đồng là tại ấp M, xã B, huyện Vĩnh Thuận nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và điểm g khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[3] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày thừa nhận của bị đơn tại biên bản lấy lời khai ngày 11/12/2020 (bút lục số 33) và lời trình bày của đương sự có mặt tại phiên tòa hôm nay, có cơ sở để xác định: Giữa Hộ kinh doanh C với ông Đỗ Văn T có hợp đồng mua bán thức ăn và thuốc thủy sản nuôi tôm với nhau. Cụ thể: Hộ kinh doanh C cung cấp thức ăn và thuốc thủy sản để ông Đỗ Văn T nuôi tôm. Quá trình thực hiện hợp đồng đến ngày 01/10/2020 ông T còn nợ lại Hộ kinh doanh C số tiền 43.621.000 đồng đến nay chưa trả. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn ông T phải trả cho Hộ kinh doanh C số tiền mua bán thức ăn và thuốc thủy sản nuôi tôm còn thiếu là 43.621.000 đồng.

Về thời gian bắt đầu thực hiện hợp đồng, tuy người đại diện hợp pháp của nguyên đơn và ý kiến trình bày của bị đơn không thống nhất với nhau, nhưng đến tại thời điểm này không ai có ý kiến tranh chấp về vấn đề này nên HĐXX cũng không cần thiết xác định chính xác thời gian ký kết hợp đồng giữa hai bên.

Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn đối số tiền gốc mua bán còn thiếu là 43.621.000 đồng từ ngày 01/10/2020 đến ngày 27/10/2020 theo mức lãi suất 10%/năm là có cơ sở để chấp nhận toàn bộ. Vì, bị đơn ông T cũng đã thừa nhận từ ngày 01/10/2020 đến nay chưa trả số tiền gốc mua bán còn thiếu cho nguyên đơn được đồng nào. Tuy trong hợp đồng giữa hai bên ký kết không có thỏa thuận lãi suất, nhưng kể từ ngày 01/10/2020 đến nay ông T đã không thực hiện nghĩa vụ trả số tiền còn thiếu cho Hộ kinh doanh C mặc dù có đòi nhiều lần. Tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này".

Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 quy định: ".....có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ" mà mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 là 20%/năm, như vậy mức lãi suất trong trường hợp này được xác định là 10%/năm = 0,83%/tháng.

Căn cứ vào các quy định của pháp luật được viện dẫn nêu trên, thì số tiền lãi Hộ kinh doanh C yêu cầu được tính toán cụ thể như sau:

- Thời gian từ ngày 01/10/2020 đến ngày 27/10/2020 là 27 ngày.

- Số tiền lãi là: 325.836 đồng làm tròn 326.000 đồng (43.621.000 đồng x 0,83%/tháng) = 362.054 đồng/tháng : 30 ngày = 12.068 đồng/ngày x 27 ngày.

Từ các phân tích trên xác định, nay ông T có trách nhiệm phải trả cho Hộ kinh doanh C số tiền mua bán và lãi do chậm trả tiền mua bán tổng cộng là 43.947.000đ (Bốn mươi ba triệu chín trăm bốn mươi bảy nghìn đồng), vì đây là nghĩa vụ trả nợ của bên mua tài sản theo quy định tại Điều 274, 275, 280, 430, 440 của Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ để chấp nhận toàn bộ.

[4] Về án phí sơ thẩm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị đơn ông Đỗ Văn T phải chịu 2.197.350 đồng là tròn 2.197.000 đồng (43.947.000đ x 5%) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm g khoản 1 Điều 40, Điều 147, khoản 4 Điều 207, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Áp dụng các điều 274, 275, 280, 357, 430, 440 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Buộc ông Đỗ Văn T phải trả cho Hộ kinh doanh C số tiền mua bán thức ăn và thuốc thủy sản để nuôi tôm còn thiếu là 43.947.000đ (Bốn mươi ba triệu chín trăm bốn mươi bảy nghìn đồng), trong đó: Gốc 43.621.000 đồng, lãi chậm trả 10%/năm tính từ ngày 01/10/2020 đến ngày 27/10/2020 (27 ngày) bằng 326.000 đồng.

2. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Hộ kinh doanh C, nếu ông Đỗ Văn T không trả hoặc trả không đủ số tiền nêu trên cho Hộ kinh doanh C thì hàng tháng ông Đỗ Văn T còn phải trả tiền lãi cho Hộ kinh doanh C theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về án phí:

- Bị đơn ông Đỗ Văn T phải chịu 2.197.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Hoàn trả lại cho Hộ kinh doanh C 1.098.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0003874 ngày 03 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thuận.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 23/3/2021); đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 05/2021/DS-ST ngày 23/03/2021 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản

Số hiệu:05/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thuận - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;