Bản án 05/2021/DS-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp nợ hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 05/2021/DS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI 

Trong ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 182/2020/TLST-DS, ngày 16/11/2020 về việc “Tranh chấp nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-DS, ngày 05 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Dương Thị Diệp Th - sinh năm 1969 (có mặt). Địa chỉ: Ấp 1, xã Vĩnh HHB, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Bà Võ Thị Phương T - sinh năm 1980 (có mặt). Địa chỉ: Ấp 1, xã Vĩnh HHB, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/9/2020 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Dương Thị Diệp Th trình bày: Nguyên vào năm 2014 bà có chơi hụi do cô T làm chủ, bà tham gia chơi đước một thời gian thì cô T nói bể hụi, từ ngày bể hụi cho đến nay cô T không chịu trả cho chị được khoảng nào và hiện cô T còn nợ lại bà các khoảng như sau.

- Ngày 15/3/2015 cô T áp dây hụi 3.000.000 đồng, mỗi tháng sổ 01 kỳ, có 29 hụi viên, bà tham gia chơi 01 chưn, đóng được 20 lần = 60.000.000 đồng.

- Ngày 10/6/2015 cô T áp dây hụi 3.000.000 đồng, mỗi tháng sổ 01 kỳ, có 28 hụi viên, bà tham gia chơi 01 chưn, đóng được 18 lần = 54.000.000 đồng.

Tổng cộng 02 khoản bằng =114.000.000 đồng. Tại biên bản hòa giải ngày 01/12/2020 bà Th thống nhất rút lại một phần nội dung yêu cầu khởi kiện cho nên bà yêu cầu cô T trả số tiền thực đóng là 70.300.000 đồng, sau đó cô T trả được 9.600.000 đồng. Như vậy còn lại là 60.700.000 đồng bà Th yêu cầu trả một lần ngoài ra không yêu cầu gì thêm.

Bị đơn: Bà Võ Thị Phương T trình bày: Bà thừa nhận có làm chủ hụi và tổ chức nhiều dây hụi với nhiều người tham gia trong đó có bà Th tham gia chơi 02 dây và đóng được 01 thời gian thì bà không còn khả năng sổ hụi tiếp tục nên tuyên bố bể hụi. Sau khi bể hụi bà với bà Th có thống nhất tính toán nợ tiền hụi thì bà còn nợ bà Th với số tiền vốn là 70.300.000 đồng và bà đã trả được cho bà Th 9.600.000 đồng, hiện chị còn thiếu lại là 60.700.000.000 đồng. Còn bà Th khai là bà còn thiếu 114.000.000 đồng là có cả tiền lời tính theo hụi chết.

Do vậy bà chỉ đồng ý trả cho bà Th số tiền hụi vốn là 60.700.000 đồng nhưng vì hoàn cảnh cuộc sống khó khăn không có khả năng trả một lần mà phải trả dần mỗi tháng là 200.000 đồng cho đến khi dứt số nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Dương Thị Diệp Th nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nên bà khởi kiện bà Võ Thị Phương T về việc “Tranh chấp nợ hụi” được Tòa án thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 3 Điều 26 và Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[2] Về nội dung: Thời gian từ tháng 03 đến tháng 06/2015, giữa bà Dương Thị Diệp Th với bà Võ Thị Phương Tcó thỏa thuận góp hụi với nhau, bà T làm chủ hụi, bà Th là thành viên trong các dây hụi. Quá trình chơi hụi, bà Th thực hiện đầy đủ nghĩa vụ góp hụi của mình cho đến khi bà T ngưng xổ hụi (bể hụi). Tuy nhiên, từ khi ngưng xổ hụi đến nay bà T vẫn chưa giao tiền hụi đầy đủ cho bà Th nên bà Th khởi kiện đòi số tiền nợ hụi 60.700.000 đồng. Xét về nội dung và hình thức hợp đồng góp hụi như trên giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp theo Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015 nên phát sinh hiệu lực thi hành.

[3] Xét yêu cầu của bà Th buộc bà T phải trả số tiền nợ hụi là 60.700.000 đồng.

Quá trình giải quyết vụ án bà T đều thừa nhận số tiền hụi còn nợ lại bà Th là 60.700.000 đồng nhưng hẹn trả dần mỗi tháng 200.000đ cho đến khi hết nợ. HĐXX thấy rằng bà T không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao tiền hụi theo đúng cam kết là đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 18 Nghị định 19/2009/NĐ- CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường và yêu cầu xin trả nợ dần của bà T cũng không được bà Th đồng ý cho nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Th và buộc bà T có nghĩa vụ thanh toán số nợ hụi 60.700.000 đồng cho bà Th là phù hợp.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Võ Thị Phương T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.035.000đ (60.700.000đ x 5%) do chị T có lỗi trong vụ kiện này.

Bà Dương Thị Diệp Th được nhận lại số tiền 2.850.000 đồng mà bà đã nộp tạm ứng án phí trước đây theo biên lai thu số 0009552, ngày 12/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao do yêu cầu của bà được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 471, 468 và Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 18 Nghị định 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/2/2019 về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị Diệp Th.

Buộc bà Võ Thị Phương T có nghĩa vụ trả cho bà Dương Thị Diệp Th số tiền 60.700.000đ (sáu mươi triệu bảy trăm nghìn đồng).

Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị Diệp Th, do bà tự nguyện rút một phần yêu cầu với số tiền là 53.300.000 đồng.

Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án: Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 218 của Bộ luật tố tụng dân sự.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Võ Thị Phương T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.035.000 đồng (ba triệu không trăm ba mươi lăm nghìn đồng).

Bà Dương Thị Diệp Th được nhận lại số tiền 2.850.000 đồng (hai triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) mà bà đã nộp tạm ứng án phí trước đây theo biên lai thu số 0009552, ngày 12/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20/01/2021).

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 9 Luật thi hành án dân sự và các Điều 7, 7a, 7b Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

367
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2021/DS-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp nợ hụi

Số hiệu:05/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;